Đình Phượng Trì
(BNP) - Đình Phượng Trì, thị trấn Thứa, huyện Lương Tài được khởi dựng từ thời Lê. Trải qua thăng trầm lịch sử thiên nhiên và chiến tranh, đình đã phải tu bổ tôn tạo nhiều lần.
Đình Phượng Trì.
Gần đây nhất vào năm 1995, đình Phượng Trì được nhân dân địa phương trùng tu tôn tạo bằng chất liệu gỗ, theo kiến trúc truyền thống và tồn tại đến ngày nay. Đến năm 2018, được sự hỗ trợ của Nhà nước, nhân dân thực hiện tu bổ tôn tạo đình.
Bờ nóc đắp lưỡng long chầu nhật.
4 mái đao cong.
Đình Phượng Trì có kiến trúc kiểu chữ Đinh gồm Đại đình 3 gian và Hậu cung 2 gian. Tòa Hậu cung được nối với gian giữa tòa Đại đình ngăn cách bởi bức cửa cấm.
Kiến trúc bộ vì nóc theo kiểu con chồng, giá chiêng, chạm khắc chủ yếu hoa lá cách điệu.
Bộ khung đình được làm bằng gỗ lim chắc khỏe, gồm 2 hàng cột dọc, 4 hàng cột ngang. Kiến trúc bộ vì nóc theo kiểu con chồng, giá chiêng, tiền kẻ hậu bẩy, chạm khắc đơn giản chủ yếu bào trơn đóng bén, hoa lá cách điệu, mở cửa gian giữa, kiểu thượng song hạ bản thông thoáng, mái lợp ngói ta, trên đắp đôi rồng chầu, hai bên xây hai cột đồng trụ.
Ban thờ chính toà Đại đình.
Đình thờ thành hoàng làng là ông Phạm Ngọc và ông Phạm Sùng.
Đình Phượng Trì thờ thành hoàng làng là ông Phạm Ngọc và ông Phạm Sùng là những danh tướng thời Lý.
Các sắc phong niên lưu giữ tại đình.
Long đình.
Hòm sắc.
Theo các cụ cao niên trong thôn cho biết, xưa đình thờ ông Phạm Ngọc là đình chung của 5 thôn (Phượng Trì, Tam Sơn, Hữu Ái, Đạo Sử và Đông Hương), nhưng ngôi đình đó đã bị phá hủy trong chiến tranh, do đó nhân dân 5 thôn đã thờ ông Phạm Ngọc tại đình làng Phượng trì. Từ đó đến nay mỗi khi đến ngày hội (ngày 12 tháng 2 âm lịch) nhân dân 5 thôn trên vẫn tập chung, tổ chức tế lễ tại đình thôn Phượng Trì.
Bảng chúc văn.
Bộ bát bửu.
Các hiện vật tiêu biểu được lưu giữ tại đình gồm: 09 đạo sắc phong niên đại Cảnh Hưng, Tự Đức, Đồng Khánh, Duy Tân và Khải Định; long đình thời Nguyễn; tượng thờ và hòm sắc thế kỷ 21…
Ngựa hồng tại đình.
Đình Phượng Trì được UBND tỉnh xếp hạng di tích lịch sử cấp tỉnh tại Quyết định số 1598/CT, ngày 30/11/1996.