Đại tướng Đoàn Khuê - Người cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo xuất sắc của Quân đội Việt Nam
(BNP) - Đại tướng Đoàn Khuê (bí danh là Võ Tiến Trình) sinh ngày 29/10/1923 trong một gia đình giàu truyền thống yêu nước tại làng Gia Đảng, xã Triệu Tân (nay là xã Triệu Lăng), huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Suốt 60 năm hoạt động cách mạng, dù ở cương vị, trọng trách nào, Đại tướng Đoàn Khuê cũng luôn hết lòng phụng sự Tổ quốc, nhân dân; mưu lược, quyết đoán, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ huy, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Đặc biệt, trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, đồng chí đã đề xuất, tham mưu với Đảng, Nhà nước, Quốc hội nhiều chủ trương đúng đắn về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng…
Sớm giác ngộ cách mạng, năm 1939, khi mới 16 tuổi đồng chí Đoàn Khuê đã thoát ly gia đình, tham gia hoạt động trong phong trào thanh niên phản đế và trở thành Bí thư thanh niên phản đế phủ Triệu Phong. Năm 1940, đồng chí bị thực dân Pháp bắt, suốt 5 năm (1940 - 1945) bị giam cầm, đày ải từ nhà lao Quảng Trị đến nhà đày Buôn Ma Thuột, đồng chí luôn tỏ rõ chí khí kiên cường, bất khuất trước những đòn tra tấn tàn bạo của kẻ thù, đồng chí được cử làm thành viên của tổ chức trung kiên có tên là “Ủy ban vận động cách mạng”.
Tháng 5/1945, rời khỏi ngục tù đế quốc, đồng chí Đoàn Khuê được tổ chức phân công về xây dựng cơ sở cách mạng ở Quảng Bình.
Tháng 6/1945, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương và được cử làm Chủ nhiệm Mặt trận Việt Minh tỉnh Quảng Bình.
Tháng 8/1946, đồng chí Đoàn Khuê được điều động vào chiến trường Khu 5, phân công làm Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy Trường Lục quân Quảng Ngãi; Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy tiểu đoàn Hồ Tích, Quảng Ngãi.
Từ tháng 4/1947, đồng chí lần lượt đảm nhận vị trí Chính trị viên, Bí thư Đảng ủy các Trung đoàn 69, 73, 78, 126 và 84 Liên khu 5. Đầu năm 1952, đồng chí là Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn 108 Liên khu 5; Phó Chính ủy Sư đoàn 305 - sư đoàn chủ lực đầu tiên ở Nam Trung Bộ đến khi kết thúc cuộc kháng chiến chống Pháp.
Từ tháng 11/1954 đến năm 1957, theo sự phân công của tổ chức, đồng chí Đoàn Khuê tạm rời xa chiến trường Khu 5 và nhận nhiệm vụ Phó Chính ủy Sư đoàn 675; Chính ủy Sư đoàn 351, Bí thư Đảng ủy Sư đoàn 351.
Tháng 3/1958, đồng chí được điều động về giữ cương vị Chính ủy, Bí thư Đảng ủy Lữ đoàn 270 khu vực giới tuyến quân sự, Ủy viên Đảng ủy Quân khu 4. Từ tháng 10/1960, đồng chí là Phó Chính ủy Quân khu 4, Ủy viên Đảng ủy Quân khu 4.
Năm 1963, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào thời kỳ quyết liệt, Khu 5 trở thành địa bàn chiến lược bị địch đánh phá nặng nề, đồng chí Đoàn Khuê được cử trở lại chiến trường Khu 5 với cương vị ủy viên Thường vụ Khu ủy, Phó Chính ủy Quân khu, Phó Bí thư Đảng ủy Quân khu 5.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV (12/1976), đồng chí được bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được bổ nhiệm làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu, Bí thư Đảng ủy Quân khu 5.
Từ tháng 4/1983 đến tháng 11/1986, đồng chí được giao nhiệm vụ làm Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh V, Phó trưởng Đoàn chuyên gia giúp nước bạn Campuchia.
Từ tháng 12/1986 đến tháng 1/1998, đồng chí được Đảng và Nhà nước phân công giữ các trọng trách: Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiêm Tư lệnh Bộ Tư lệnh 719, Trưởng ban lãnh đạo Đoàn chuyên gia giúp nước bạn Cam-pu- chia, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, ủy viên Thường vụ Đảng ủy rồi Phó Bí thư Đảng ủy Quân sự Trung ương. Đại tướng Đoàn Khuê là ủy viên Trung ương Đảng khoá IV đến khóa VIII; là ủy viên Bộ Chính trị các khoá VI, VII, VIII; là đại biểu Quốc hội các khoá VII, VIII, IX và X. Đồng chí được Đảng và Nhà nước phong quân hàm Thiếu tướng năm 1974 và Đại tướng năm 1990.
Đồng chí Đại tướng Đoàn Khuê từ trần ngày 16/01/1999, hưởng thọ 76 tuổi.
Do có nhiều công lao đối với sự nghiệp cách mạng, đồng chí đã vinh dự được Đảng, Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh và nhiều huân, huy chương cao quý khác.