Nghề làm nón lá Môn Quảng
Môn Quảng (xã Lãng Ngâm, Gia Bình) là một thôn thuần nông, đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn. Khoảng giữa thế kỷ XX, cụ Nguyễn Văn Cúc đã mày mò đến tận làng Chuông (Hà Tây cũ) để học nghề làm nón lá và truyền lại cho bà con trong làng.
Ban đầu chỉ có phụ nữ và trẻ nhỏ học khâu nón, khi thấy nón lá được nhiều người mua, người khâu nón có thêm thu nhập thì đàn ông ở Môn Quảng cũng học làm nón. Nghề làm nón vừa nhàn lại tranh thủ được mọi lúc mọi nơi, có người làm nhanh chỉ cần ngồi với nhau dăm ba câu chuyện cũng xong một chiếc nón. Đây là một nghề dễ học phù hợp với nhiều lứa tuổi, hơn nữa lại tạo thêm thu nhập, phát triển kinh tế nên được người dân theo học và nhân rộng. Có thời điểm lên đến 95% số hộ, hàng trăm lao động trong thôn làm nón lá. Có những gia đình đến ba thế hệ làm nón.
Nón lá Môn Quảng không chỉ phục vụ nhu cầu cho nhân dân trong vùng lân cận mà còn được bán tại nhiều tỉnh như Bắc Giang, Hải Dương, Thái Nguyên… Nghề làm nón lá góp phần giải quyết việc làm và tăng thu nhập đáng kể cho người dân địa phương, nhiều gia đình ăn nên làm ra.
Nguyên liệu để đan nón bao gồm thanh nứa làm vanh, mo và lá nón được mua từ các tỉnh Hòa Bình, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Quảng Bình… Để có được chiếc nón lá bền đẹp, đòi hỏi người làm nón phải có sự cẩn thận, tỉ mỉ và khéo léo từ những khâu đầu tiên: Lựa chọn lá đẹp, làm trắng và bền lá bằng bột đá, làm cho lá phẳng và xếp lên khuôn làm hai lớp, giữa hai lớp lá là một lớp mo nang mỏng.
Người khâu nón phải là những người khéo tay và kiên trì khâu sao cho mũi kim lên xuống đều đặn, lỗ khâu thật nhỏ và khít. Bên trong chiếc nón thường được trang trí thêm những họa tiết, màu sắc làm cho chiếc nón lá sinh động và đẹp đẽ hơn. Ban đầu nón lá Môn Quảng rất thô sơ, đơn giản nhưng càng về sau người ta càng chú ý những tiểu tiết làm cho nón bền và đẹp hơn.
Một thời phát triển là thế mà giờ đây nghề nón lá ở Môn Quảng đang đứng trước nguy cơ mai một bởi người dân ở đây chẳng mấy ai còn tha thiết với nghề. Những người cao niên trong thôn bày tỏ sự luyến tiếc: “Chẳng biết với tình trạng như hiện nay thì nghề nón Môn Quảng có thể tồn tại bao lâu nữa?”.
Bà Nguyễn Thị Vang, một người làm nón lâu năm cho biết: “ Trước đây, trẻ con biết khâu nón từ năm lên 10, nhưng giờ đây bọn trẻ chẳng mấy ai còn quan tâm. Giờ chỉ còn một số phụ nữ trung niên và những cụ già muốn giữ nghề mà thôi”.
Ông Nguyễn Văn Hiệu, Trưởng thôn Môn Quảng cho biết: “Hiện nay trong thôn chỉ còn khoảng 1/4 số hộ gắn bó với nghề nón, đa số là những người chưa đến hoặc đã quá tuổi lao động. Người làm nghề nón nhanh và khéo thì mỗi ngày cũng chỉ khâu được khoảng 2-3 chiếc, trừ chi phí chỉ lãi khoảng 50.000 đến 70.000 đồng/ngày, còn những người già và trẻ em chỉ được 30.000 đồng/ngày, trong khi một số ngành khác đang phát triển mạnh mẽ như nghề may gia công, nghề mộc… mang lại cho họ mức thu nhập có khi lên đến vài trăm nghìn đồng/ngày. Bởi vậy đã khiến cho nhiều người quay lưng với nghề nón.
Thôn cũng có nhiều chủ trương lưu giữ và phát triển làng nghề làm nón lá vốn có, nhưng rất khó khăn bởi nhu cầu xã hội cũng như sự phát triển kinh tế thị trường khiến chẳng ai còn mặn mà với nghề nữa. Hiện nay trong thôn còn nhiều cụ già tâm huyết muốn truyền lại nghề cho thế hệ sau gìn giữ và phát huy, thôn cũng mong muốn mở các lớp học nghề nhằm hướng con em lưu giữ lại nghề truyền thống”.
Nón lá từ lâu đã trở thành hình ảnh tượng trưng cho nét văn hóa của người Việt Nam và đã từng gắn bó sâu sắc với người dân Môn Quảng. Chiếc nón lá từ bao đời không thể thiếu để che mưa, che nắng. Thế nhưng, nghề nón lá Môn Quảng hiện đang bấp bênh, rất cần sự hỗ trợ, giúp đỡ của các ngành, các cấp nhằm duy trì và phát triển.