Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh năm 2017.
Theo Báo cáo của Cục Thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội trong năm 2017 đã đạt kết quả đồng bộ toàn diện với nhiều thành công nổi trội. Tăng trưởng kinh tế đạt cao (+19,12%); quy mô công nghiệp đạt hơn 1.080 nghìn tỷ đồng (giá hiện hành) và xuất khẩu đạt xấp xỉ 30 tỷ USD đã tạo ra “kỳ tích mới”; thu ngân sách nhà nước đạt hơn 22 nghìn tỷ đồng, giữ vững vị trí thứ 10/63 tỉnh, thành phố; thu hút vốn đầu tư FDI cao và vốn đầu tư phát triển lớn đã góp phần đưa Bắc Ninh trở thành điểm sáng trong cả nước về phát triển kinh tế. Tuy nhiên, trong phát triển kinh tế vẫn còn không ít khó khăn và thách thức, đó là: tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất nông nghiệp, ứng dụng CNC trong sản xuất còn hạn chế và thiếu sự liên kết, nên hiệu quả chưa cao; quy mô công nghiệp lớn nhưng chủ yếu là do khu vực FDI tạo ra, nên phát triển chưa vững chắc. Một số lĩnh vực xã hội tuy ổn định nhưng tính bền vững chưa cao, như số vụ án liên quan đến ma túy và Bắc Ninh dấu hiệu trở thành điểm trung chuyển, tiêu thụ và sản xuất ma túy; số vụ việc khiếu kiện trong năm tăng cao… Vì thế, các ngành, các cấp, các địa phương cần tập trung khắc phục những hạn chế, tồn tại này để hạn chế tác động đến an ninh, an toàn của nhân dân và phát triển kinh tế. Đồng thời, tiếp tục thực hiện hiệu quả các giải pháp nhằm tháo gỡ khó khăn cho DN, quan tâm và hỗ trợ cho doanh nghiệp dân doanh, khuyến khích người dân khởi nghiệp, để các loại hình doanh nghiệp tư nhân từng bước vươn lên là động lực tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
1. Tăng trưởng kinh tế: Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2017 (giá so sánh 2010) ước đạt 141.980 tỷ đồng, tăng 19,12% so với năm 2016. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 23,27% và đóng góp tới 17,03 điểm phần trăm tăng trưởng; khu vực dịch vụ tăng 8,93% và đóng góp 2,1 điểm phần trăm; còn khu vực NLTS giảm 0,39% và làm giảm 0,01 điểm phần trăm tăng trưởng. Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản: Diện tích đất sản xuất nông nghiệp tiếp tục bị thu hẹp, xu hướng nông dân bỏ ruộng gia tăng. Bên cạnh đó, biến đổi khí hậu đã tác động rõ rệt đến thời tiết và ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp, nhất là vụ mùa, nên diện tích gieo trồng và sản lượng sản phẩm thu hoạch của một số cây hàng năm giảm. Chăn nuôi, do giá thịt lợn giảm sâu, giữ ở mức thấp trong thời gian dài, tổng đàn giảm 9,1% vào cuối năm, sản lượng thịt hơi gia súc, gia cầm xuất chuồng giảm 3,5%. Tuy nhiên, nhờ đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu mùa vụ, nhất là mở rộng quy mô diện tích cây thực phẩm và mô hình chăn nuôi ứng dụng CNC; số lượng, thể tích và sản lượng nuôi thủy sản lồng bè tăng cao, đã góp phần giữ sản xuất nông lâm nghiệp, thủy sản chỉ giảm ở mức thấp. Tính chung khu vực này, GTSX (giá so sánh 2010) năm 2017 đạt 8.655 tỷ đồng, giảm 0,4% so với năm 2016 và giá trị tăng thêm đạt 3.929 tỷ đồng, giảm 0,39%. Ở khu vực công nghiệp - xây dựng: Mặc dù, sản xuất công nghiệp quý I tăng trưởng âm, nhưng nhờ khu vực FDI có thêm sản phẩm chủ lực mới từ cuối tháng 4 và có thêm nhà máy mới quy mô lớn đi vào hoạt động từ tháng 8 đã tạo ra bước đột phá cho ngành công nghiệp. Bên cạnh đó, công nghiệp trong nước, nhất là khu vực doanh nghiệp dân doanh đã phục hồi hơn nhờ các chính sách hỗ trợ được thực hiện có hiệu quả, chính quyền quyết liệt tập trung tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất kinh doanh; các doanh nghiệp tích cực nâng cao năng lực đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh đổi mới công nghệ, ứng dụng CNC, công nghệ hiện đại vào sản xuất góp phần tăng quy mô công nghiệp. Tính chung, GTSX công nghiệp (giá so sánh 2010) ước đạt 979.180 tỷ đồng, tăng 39,9% và giá trị tăng thêm đạt 102.342 tỷ đồng, tăng 24,1%. Ngành xây dựng, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ trong khu vực, nhưng tiếp tục giữ đà tăng trưởng khá. GTSX ước đạt 20.003 tỷ đồng, tăng 9,1% so với năm 2016. Tính chung, giá trị tăng thêm của khu vực CN-XD đạt 107.552 tỷ đồng, tăng 23,27%. Đây là mức tăng cao kể từ năm 2013 đến nay và đóng góp đáng kể vào tăng trưởng GDP của cả nước. Ở khu vực dịch vụ, do quy mô công nghiệp tiếp tục mở rộng, lực lượng lao động tăng, nên nhiều ngành dịch vụ phát triển tương ứng nhằm đáp ứng kịp thời yêu cầu của sản xuất và các nhu cầu thiết yếu của người lao động, như dịch vụ lưu trú và ăn uống, vận tải, viễn thông, bất động sản, siêu thị, trung tâm thương mại, dịch vụ vui chơi giải trí,... Bên cạnh đó, do giá cả hàng hoá ổn định, thu nhập của người lao động trên địa bàn tỉnh cao hơn mức bình quân chung cả nước, và từ tháng 7, mức lương cơ bản của các đối tượng hưởng lương ngân sách nhà nước và người nghỉ hưu tăng thêm 7,4%, nên mức tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tỉnh đều tăng hai con số. Một số ngành có mức tăng cao, như: ngành bán buôn, bán lẻ và sửa chữa ô tô, mô tô xe máy (+10%); dịch vụ vận tải (+12,9%); lưu trú và ăn uống (+16,2%); dịch vụ hành chính và hỗ trợ (+11,1%); dịch vụ vui chơi giải trí (+11,1%); dịch vụ khác (+14,5%). Đồng thời, do hoạt động SXKD và ngoại thương tăng cao, nên thu thuế sản phẩm, thuế nhập khẩu đạt 6.906 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng 12,1% so với năm 2016. Tính chung, khu vực dịch vụ (kể cả thuế sản phẩm) tăng 8,93% so năm trước và là mức tăng cao nhất trong nhiều năm gần đây.
2. Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
2.1. Tài chính: Hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển, nhất là ở khu vực FDI, quy mô nhiều ngành kinh tế tiếp tục mở rộng và tăng trưởng cao đã tạo điều kiện nuôi dưỡng nguồn thu cho ngân sách. Bên cạnh đó, UBND tỉnh đã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các giải pháp tăng thu, chống thất thu thuế, góp phần hoàn thành vượt dự toán thu ngân sách nhà nước. Tính chung cả năm, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 21.598 tỷ đồng, vượt 12,8% dự toán năm và tăng 21,3% so với năm 2016. Trong đó, thu nội địa chiếm 74,1% và vượt 11,5% dự toán; so với năm 2016, tăng 4,6% về tỷ trọng và tăng tới 29,3% về số tiền. Một số khoản thu nội địa chiếm tỷ trọng lớn và tăng cao so năm 2016, như: thu từ DN FDI đạt 6.900 tỷ đồng, chiếm 31,9% và tăng 29,6%; thu thuế ngoài quốc doanh đạt 1.870 tỷ đồng, chiếm 8,7% và tăng 26,4%; thu thuế thu nhập cá nhân đạt 2.200 tỷ đồng, chiếm 10,2% và tăng 31,4%; thu tiền sử dụng đất đạt 2.300 tỷ đồng, chiếm 10,6% và gấp gần 2 lần. Hoạt động ngoại thương cũng đạt mức tăng cao, nên thu thuế từ hàng hóa xuất nhập khẩu cũng tăng khá. Ước tính cả năm, thu từ hải quan đạt 5.400 tỷ đồng, vượt 20% dự toán và tăng 5,3% so với năm 2016; trong đó thu từ thuế VAT hàng nhập khẩu ước đạt 4.215 tỷ đồng, chiếm 78% và tăng 6,9% so với năm 2016. Quy mô thu ngân sách tăng và đã đóng góp 17% thu nội địa và 100% thu từ hải quan vào ngân sách trung ương, phần còn lại được cân đối để đảm bảo chi ngân sách địa phương. Với chủ trương tiếp tục ưu tiên cho đầu tư phát triển, nhất là đầu tư công trong các ngành, lĩnh vực trọng điểm; đảm bảo phúc lợi và an sinh xã hội được TU, HĐND và UBND tỉnh thực hiện có hiệu quả với nhiều chính sách mới được ban hành bổ sung. Tính chung cả năm, tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 14.444 tỷ đồng, vượt 23,3% dự toán và tăng 16,6% so với năm 2016. Trong đó, chi cho đầu tư phát triển chiếm 36,1%, vượt tới 98,5% dự toán, nhưng lại giảm 7,9% so với năm 2016 (do thu từ tiền sử dụng đất được sử dụng đầu tư cho các công trình trọng điểm và các dự án BT, BOT); chi thường xuyên đạt 8.376 tỷ đồng, chiếm 48%, chỉ vượt 2,5% dự toán, nhưng tăng cao (+44,3%) so năm 2016. Các khoản chi thường xuyên chiếm tỷ trọng lớn và có mức tăng cao so với năm 2016, như: chi sự nghiệp kinh tế chiếm 21,6% và gấp 2 lần; chi giáo dục đào tạo chiếm 34,4% và tăng 30,8%; chi y tế chiếm 6,7% và tăng 24,6%, chi QPAN chiếm 5,5% và tăng 70,2%; chi QLNN, đảng, đoàn thể chiếm 14,8% và tăng 18,3%; chi bảo vệ môi trường chiếm 6,3% và gấp 2,9 lần.
2.2. Ngân hàng - Tín dụng: Trong năm, ngành Ngân hàng đã bám sát định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, triển khai kịp thời, đồng bộ, có hiệu quả các cơ chế chính sách, các giải pháp theo chỉ đạo của Chính phủ, NHNN Việt Nam đến các chi nhánh ngân hàng, tổ chức tín dụng trên địa bàn. Trong đó, một số chính sách được thực hiện có hiệu quả, như: Chương trình kết nối NH-DN, mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng, cho vay bình ổn thị trường, cho vay hỗ trợ khách hàng chăn nuôi lợn, sản xuất thức ăn chăn nuôi và sản xuất thuốc thú y. Đặc biệt, NHNN chi nhánh tỉnh đã phối hợp chặt chẽ với các đơn vị liên quan tập trung tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, đẩy mạnh cho vay theo chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp CNC, nông nghiệp sạch. Thực hiện nghiêm túc chỉ đạo về lãi suất của NHNN, từ 10/7/2017 các NHTM tiếp tục thực hiện điều chỉnh giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên; tín dụng hỗ trợ DN, SXKD với lãi suất thấp hơn từ 0,5%-1%/năm. Đến nay, lãi suất cho vay phổ biến đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế ưu tiên ở mức 6-6,5%/năm đối với ngắn hạn (cùng kỳ năm trước là 7%/năm); lãi suất cho vay các lĩnh vực SXKD còn lại từ 8,5-10%/năm đối với ngắn hạn và 10-11,5%/năm đối với trung và dài hạn. Vì thế, hoạt động ngân hàng, tín dụng tăng trưởng khá cao. Đến cuối tháng 12, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 90.000 tỷ đồng, tăng 31,6% so với cuối năm 2016. Trong đó, tiền gửi dân cư đạt 56.951 tỷ đồng và tăng 36,5%. Tổng dư nợ tín dụng đến cuối tháng 12 ước đạt 70.000 tỷ đồng, tăng 23,6% so với cuối năm 2016. Trong đó, dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 42.138 tỷ đồng, tăng 27%. Một số chương trình cho vay đạt hiệu quả, như: cho vay hỗ trợ nhà ở có 554 khách hàng với dư nợ 153 tỷ đồng; tín dụng đối với nông nghiệp, nông thôn đạt 15.698 tỷ đồng, tăng 23,7% so với cuối năm 2016, chiếm 22,4% tổng dư nợ (trong đó dư nợ cho vay xây dựng nông thôn mới chiếm 84%); chương trình kết nối NH-DN với 1.320 khách hàng và doanh số đạt gần 18.000 tỷ đồng, đến cuối năm dư nợ cho vay còn hơn 10.000 tỷ đồng; cho vay chăn nuôi lợn, sản xuất thức ăn chăn nuôi và thuốc thú y đạt 1.911 tỷ đồng; chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC, nông nghiệp sạch, hiện nay đã cam kết cho vay được hơn 10 tỷ đồng với doanh số đã thực hiện đạt hơn 2 tỷ đồng. Công tác thanh toán đáp ứng kịp thời các nhu cầu vốn cho hoạt động SXKD của DN và người dân trên địa bàn. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã lắp đặt 244 máy ATM; lắp đặt, vận hành 1.199 máy POS tăng 322 máy so với năm 2016; Các NH trên địa bàn đã phát hành được 662.668 thẻ ATM; thực hiện trả lương cho 2.230 đơn vị, trong đó có 853 đơn vị hưởng lương từ NSNN; so với năm 2016, tăng 138.158 thẻ, tăng 517 đơn vị trả lương. Tổng thu tiền mặt cả năm ước đạt 416.550 tỷ đồng, tăng 26,7% so với năm 2016. Tổng chi tiền mặt ước đạt 412.096 tỷ đồng, tăng 25,9%. Bội thu cả năm đạt 4.454 tỷ đồng, gấp gần 3 lần năm 2016.
2.3. Bảo hiểm xã hội: Công tác bảo hiểm nói chung và bảo hiểm y tế nói riêng tiếp tục được các ngành, các địa phương triển khai rộng khắp với mục tiêu đảm bảo an sinh cho xã hội, nhất là người lao động và các hộ gia đình chưa có bảo hiểm y tế. Đến nay, ngành Bảo hiểm đã cơ bản lập xong danh sách hộ thuộc đối tượng tham gia BHYT gia đình. Trên cơ sở này, đã phối hợp với các địa phương tiếp tục vận động các gia đình tích cực tham gia BHYT gia đình. Đến cuối năm, toàn tỉnh có 1.091,1 nghìn người tham gia đóng bảo hiểm các loại, chiếm 90,3%/tổng dân số; so cùng kỳ năm trước tăng 5% về tỷ lệ so với dân số và tăng 7,2% về số người tham gia bảo hiểm. Trong đó, có 1.087,8 nghìn người tham gia bảo hiểm y tế, đạt 90% tổng dân số toàn tỉnh, tăng 7,2% so với năm 2016; 308,6 nghìn người đóng BHTN, chiếm 46,2%/tổng số lao động đang làm việc, tăng 23,4 nghìn người so với năm 2016. Tổng số tiền thu bảo hiểm các loại đạt 5.815,7 tỷ đồng, tăng 11%. Công tác cấp sổ, thẻ bảo hiểm được phối hợp chặt chẽ giữa các ngành có liên quan và theo đúng quy trình. Công tác chi bảo hiểm, lương hưu và trợ cấp BHXH tiếp tục được thực hiện qua hệ thống bưu điện, đảm bảo kịp thời, đầy đủ, an toàn và chính xác; đúng đối tượng và thời gian qui định. Trong năm, toàn tỉnh đã chi 3.679 tỷ đồng tiền bảo hiểm các loại, tăng 11,2% so với năm 2016; trong đó chi từ quỹ BHXH là 2.532 tỷ đồng, tăng 3,2%. Số tiền thu từ BHYT đạt 1.274,6 tỷ đồng, tăng 12,6% và đã chi 1.156 tỷ đồng để thanh toán cho số người khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế trong cả nước, tăng 33,8% so với năm 2016.
3. Vốn đầu tư và xây dựng 3.1. Hoạt động đầu tư: Trong năm, thực hiện nghiêm túc các chỉ đạo của Trung ương về các biện pháp khắc phục tình trạng nợ xây dựng cơ bản, UBND tỉnh đã ban hành quy định trách nhiệm người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương về quản lý đầu tư công; sửa đổi một số điều của quy định phân công, phân cấp quản lý dự án đầu tư xây dựng, nên hoạt động đầu tư đạt hiệu quả. Các công trình trọng điểm và có ý nghĩa lớn đối với phát triển KT-XH được khởi công, đẩy nhanh tiến độ thi công và hoàn thành bàn giao đưa vào sử dụng, như: khánh thành Công viên Hồ điều hòa Văn Miếu và nút giao KCN Yên Phong với Quốc lộ 18; khởi công các công trình đường dẫn phía Bắc và phía Nam cầu Phật Tích - Đại Đồng Thành, khu đền thờ Lý Thường Kiệt, Nhà máy ép dầu thực vật Dabaco, các dự án khu nhà ở công nhân tại KCN Yên Phong, tiếp nhận Dự án xây dựng Khu CNTT tập trung tại Bắc Ninh. Ở khối DN dân doanh, trong năm có thêm gần 1.000 DN mới thành lập đi vào hoạt động, vốn tín dụng được tiếp cận dễ dàng hơn. Đặc biệt, ở khu vực FDI, do công ty Samsung Display đẩy nhanh tiến độ giải ngân gói 2,5 tỷ USD tăng thêm trong năm 2017, nên vốn đầu tư tăng cao. Tính chung, tổng vốn đầu tư phát triển cả năm 2017 ước đạt 119.273,5 tỷ đồng, tăng 52,7% so với năm 2016. Trong đó, vốn nhà nước đạt 4.403,6 tỷ đồng, chỉ chiếm 3,7% và tăng 4,8% so với năm 2016; vốn ngoài nhà nước đạt 23.204 tỷ đồng, chiếm 19,5% và tăng 6,5%; vốn FDI đạt 91.665,8 tỷ đồng, chiếm 76,8% và tăng 76%. Chia theo khoản mục đầu tư, vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản đạt 83.982,6 tỷ đồng, chiếm 70,4% và tăng 30,9%, vốn mua sắm TSCĐ đạt 26.769,2 tỷ đồng, chiếm 22,4% và gấp 3,1 lần (do các DN FDI nhập máy móc thiết bị dùng cho nhà máy mới); vốn bổ sung lưu động đạt 7.833,3 tỷ đồng, chiếm 6,6% và tăng 65% so với năm 2016.
3.2. Tình hình thu hút và thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài: Trong năm, hoạt động ngoại giao kinh tế và xúc tiến đầu tư được đẩy mạnh, môi trường kinh doanh tiếp tục được cải thiện, hạ tầng KCN được xây dựng đồng bộ, nên Bắc Ninh tiếp tục thu hút được nhiều dự án đầu tư của các tập đoàn lớn vào các KCN, như: Dự án mở rộng thêm 2,5 tỷ USD của Công ty TNHH Samsung Display, C.ty TNHH Misumi, Nhà máy Hana Micron, Dự án Hanwa Techwin Security; ký kết biên bản ghi nhớ hợp tác thực hiện Dự án xây dựng trường đua ngựa, tổ hợp vui chơi giải trí, nghỉ dưỡng và trung tâm lưu thông hàng hóa tại huyện Thuận Thành. Tính đến 15/12/2017, cấp mới đăng ký đầu tư 160 dự án và cấp điều chỉnh vốn cho 115 dự án với số vốn đăng ký mới và sau điều chỉnh đạt 3,5 tỷ USD. Lũy kế đến nay, Bắc Ninh cấp đăng ký đầu tư cho 1.112 dự án FDI (còn hiệu lực) với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 15,92 tỷ USD. Tính chung cả năm, các dự án FDI đã giải ngân và thực hiện vốn đầu tư đạt 91.665,8 tỷ đồng (tương đương 4,13 tỷ USD). Trong đó, riêng SDV sau khi được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt mở rộng vốn đầu tư và HĐND tỉnh nhất trí thông qua Nghị quyết ưu đãi về thuế, đã tăng tốc giải ngân vốn đầu tư gói 2,5 tỷ ngay từ cuối quý I và cả năm đã giải ngân hơn 65 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 3 tỷ USD).
3.3. Xây dựng: Mặc dù, vốn đầu tư của khu vực FDI trong năm tăng cao, nhưng chủ yếu là lắp đặt dây truyền và mua sắm TCSĐ dùng cho sản xuất, nên giá trị xây lắp tăng không tương ứng với mức tăng tổng vốn đầu tư. GTSX xây dựng cả năm 2017 theo giá so sánh 2010 ước đạt 20.003 tỷ đồng, tăng 9,1% so với năm 2016; trong đó khu vực ngoài nhà nước đạt 17.662 tỷ đồng, tăng 9,4%; khu vực FDI đạt 2.071 tỷ đồng và tăng 5,9%. Phân theo loại công trình, công trình nhà ở đạt 8.730 tỷ đồng, chiếm 43,7% và tăng 11,5%; công trình nhà không để ở đạt 5.158,5 tỷ đồng, chiếm 25,8% và giảm 3,7%; công trình xây dựng chuyên dụng chiếm 20,8% và tăng 26,7%.
3.4. Xây dựng nông thôn mới: Trong năm, cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh tiếp tục được triển khai đồng bộ với sự vào cuộc và nỗ lực của các cấp, các ngành, các đoàn thể và chung tay của toàn dân. Đến hết năm 2017, Bắc Ninh có 73 xã đạt chuẩn nông thôn mới, chiếm 75,3% số xã, tăng 15 xã so với năm 2016. Có 02 đơn vị là huyện Tiên Du, thị xã Từ Sơn đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới và thành phố Bắc Ninh đủ điều kiện đề nghị Chính phủ công nhận về đích xây dựng nông thôn mới. Các tiêu chí tiếp tục gia tăng, bình quân đạt chuẩn là 18,14 tiêu chí/xã, tăng 0,94 tiêu chí so với năm 2016. Hệ thống nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn được đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng phục vụ nhân dân, tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 98,3%; tỷ lệ người nghèo nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 90%; tỷ lệ trường học có nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 99,6%, tỷ lệ trạm y tế có nước và nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 100%.
4. Thành lập mới và tình hình hoạt động của doanh nghiệp: Năm 2017, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án Chương trình hỗ trợ khởi nghiệp nhằm tạo điều kiện thuận lợi và nhất quán trong chính sách hỗ trợ đầu tư, khởi nghiệp trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các ngành có liên quan thường xuyên đồng hành, sát cánh cùng doanh nghiệp thông qua mô hình “Bác sỹ doanh nghiệp” và “Tổ công tác hỗ trợ doanh nghiệp”; thực hiện có hiệu quả việc cấp đăng ký kinh doanh qua mạng điện tử và nhận kết quả qua bưu điện, tặng phần mềm kế toán MISA cho doanh nghiệp mới thành lập. Tính từ ngày 01/01 đến 15/12, đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 1.950 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký là 13.890 tỷ đồng; lũy kế đến hết 2017, có 10.859 doanh nghiệp đăng ký theo Luật DN với tổng vốn 143.911 tỷ đồng. Theo số liệu tổng hợp của ngành Thuế, tính đến ngày 15/12 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 9.059 DN độc lập và 756 chi nhánh DN đang hoạt động. Trong đó, có 940 DN FDI, 8.038 DN ngoài Nhà nước thuộc tỉnh quản lý và 81 chi nhánh DN FDI, 537 chi nhánh DN ngoài nhà nước. Trong 11 tháng, đã có 309 DN phải tạm ngừng KD và 625 DN bị đóng cửa mã số thuế (trong đó có 69 DN FDI); so cùng kỳ năm trước, giảm 18 DN tạm ngừng KD, nhưng lại tăng tới 275 DN đóng cửa mã số thuế. Lũy kế đến hết tháng 11, đã có 1.164 DN làm thủ tục giải thể, trong đó năm 2017 chỉ có 54 DN, giảm nhiều so với các năm trước. Qua những số liệu trên cho thấy, kinh tế phát triển, chương trình khởi nghiệp bước đầu đạt kết quả khả quan khi có thêm nhiều DN mới thành lập và số DN khó khăn, giải thể có xu hướng giảm.
5. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
5.1. Nông nghiệp
a) Về trồng trọt: Trong năm, biến đổi khí hậu đã tác động rõ rệt đến thời tiết và ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp, nhất là vụ mùa; đồng thời do giá giống, vật tư phân bón, thuốc bảo vệ thực vật và giá dịch vụ nông nghiệp ở mức cao, làm gia tăng chi phí sản xuất. Bên cạnh đó, diện tích khu, cụm công nghiệp tiếp tục được mở rộng và đi vào hoạt động, nên diện tích đất xen kẹp khó canh tác do bị ô nhiễm cục bộ, khó tưới tiêu và xu hướng nông dân bỏ hoang diện tích này gia tăng (năm 2017 có khoảng 900 ha, tăng 200 ha so với năm 2016), tất cả đã tác động làm diện tích gieo trồng cây hàng năm tiếp tục giảm. Tuy nhiên, thực hiện chủ trương thúc đẩy phát triển nông nghiệp theo hướng tích tụ ruộng đất, tái cơ cấu sản xuất sau dồn điền, đổi thửa, nhất là mở rộng các mô hình cánh đồng lớn sản xuất nông sản chất lượng cao, sản phẩm sạch và vùng sản xuất nông nghiệp ứng dụng CNC; đồng thời, thực hiện có hiệu quả các chính sách hỗ trợ đã góp phần cho sản xuất ngành trồng trọt cơ bản ổn định, sụt giảm không đáng kể so với năm trước. Năm 2017, tổng diện tích gieo trồng đạt 83.348 ha, giảm 2,6% (tương ứng giảm 2.233 ha) so với năm 2016. Trong đó, diện tích lúa là 69.086 ha, giảm 2,4% (-1.695 ha), năng suất đạt 60,7 tạ/ha (-1,3 tạ/ha) và sản lượng đạt 419,3 nghìn tấn, giảm 19,8 nghìn tấn so với năm 2016. Diện tích ngô đạt 2.410 ha, giảm 11,1% (-643 ha); năng suất đạt 51,4 tạ/ha (+0,5 tạ/ha); sản lượng đạt 12,4 nghìn tấn, giảm 3,2 nghìn tấn. Diện tích cây rau, đậu 9.865 ha, tăng 4,6% (+ 434ha); trong đó, diện tích rau các loại là 9.399 ha, tăng 4,1% (+369 ha); năng suất ước đạt 239,5 tạ/ha (+12,8tạ/ha) và sản lượng đạt 225,1 nghìn tấn, tăng 20,4 nghìn tấn. Diện tích hoa, cây cảnh đạt 380,4 ha, tăng 55 ha. Cây lâu năm, đến cuối năm 2017 toàn tỉnh có 2.175,9 ha, tăng 14,3 ha so với năm 2016, trong đó có 2.122,4 ha cây ăn quả (+13,6 ha) và có khoảng 92,7% diện tích cây ăn quả đã cho thu hoạch sản phẩm. Tính chung, giá trị sản xuất trồng trọt (theo giá so sánh 2010) ước đạt 3.494,4 tỷ đồng, giảm 0,8%. Theo giá hiện hành, GTSX ước đạt 4.034,7 tỷ đồng, tăng 0,1%, trong đó giá trị từ các mô hình CNC đã chiếm 16,3%/GTSX. Giá trị trồng trọt tính trên 1 ha canh tác (giá hiện hành) đạt 92,7 triệu đồng, tăng 0,7% so năm trước.
b) Chăn nuôi: Trong năm, do giá thịt lợn hơi giảm sâu và giữ ở mức thấp trong thời gian dài, đã làm người chăn nuôi truyền thống thua lỗ, nên tổng đàn lợn sụt giảm. Nhưng, nhờ một số DN ứng dụng CNC trong chăn nuôi theo mô hình chuỗi giá trị từ “sản xuất giống - thức ăn - gia công - thu mua - chế biến - phân phối” và các mô hình kinh tế trang trại đem lại hiệu quả cao, sản phẩm được tiêu thụ rộng ở thị trường trong nước và cung cấp do các DN FDI trong các KCN trên địa bàn tỉnh, nên ngành chăn nuôi giảm thấp. Tại thời điểm 01/10, đàn trâu còn 2.375 con, tăng 7 con so cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 32.150 con (-453 con); đàn lợn có 384.397 con (-33.881 con); đàn gia cầm có 4.853 nghìn con (+60 nghìn con so cùng thời điểm năm trước). Tổng sản lượng thịt gia súc gia cầm xuất chuồng đạt 90.438 tấn, giảm 3.285 tấn. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (giá so sánh 2010) cả năm ước đạt 3.554,4 tỷ đồng, giảm 0,9% so với năm 2016.
5.2. Lâm nghiệp: Trong năm, do không có kế hoạch trồng mới, nên ngành Lâm nghiệp và các địa phương chủ yếu tập trung vào nhiệm vụ trồng cây phân tán và đầu tư vào nâng cấp, bảo vệ và cải tạo rừng gắn với tu bổ di tích lịch sử văn hoá. Tính chung cả năm, toàn tỉnh đã trồng được 330 nghìn cây, chăm sóc 48,9 ha rừng và bảo vệ 416,9 diện tích rừng hiện có. Công tác phòng chống cháy rừng được các ngành chức năng và các địa phương chủ động triển khai, nhưng trong năm vẫn xảy 5 vụ cháy rừng, làm thiệt hại 5,6 ha rừng với giá trị thiệt hại ước tính 1.200 triệu đồng; so cùng kỳ, giảm 3 vụ, giảm 1,1 ha rừng bị cháy, nhưng mức thiệt hại tăng 700 triệu đồng; khai thác 4.300 m3, giảm 5,4% và 5.900 Ste củi, giảm 3,5%. GTSX lâm nghiệp đạt 22,2 tỷ đồng, giảm 2,7% so với năm trước.
5.3. Thuỷ sản: Trong năm, diện tích nuôi trồng tiếp tục giảm và năng suất nuôi trong nhiều hồ, ao truyền thống không cao, nhưng nhờ có thêm nhiều cơ sở ứng dụng CNC trong nuôi trồng và mở rộng mô hình nuôi thủy sản lồng bè trên sông đã góp phần tăng sản lượng thủy sản. Năm 2017, mô hình nuôi cá thâm canh ứng dụng CNC đã chiếm 22%/tổng diện tích nuôi trồng (+6% so với năm 2016). Bên cạnh đó, chính sách hỗ trợ nuôi trồng thuỷ sản của UBND tỉnh được thực hiện đúng đối tượng, đầy đủ và kịp thời, nhất là mô hình nuôi cá lồng trên sông. Đến cuối năm, toàn tỉnh có 1.512 lồng nuôi cá với thể tích 163,3 nghìn m3; so với năm 2016, tăng 577 lồng và tăng 65,1 nghìn m3. Sản lượng thuỷ sản thu hoạch cả năm ước đạt 37.515 tấn, tăng 2,7% (+987 tấn) so với năm 2016; trong đó sản lượng nuôi trồng là 36.265 tấn, tăng 3,1% (+1091 tấn) chủ yếu do sản lượng nuôi lồng bè tăng cao (đạt 4.082 tấn, tăng 1.649 tấn). Giá trị sản xuất thuỷ sản (giá so sánh 2010) đạt 1.118 tỷ đồng, tăng 1,6% so với năm 2016.
6. Sản xuất công nghiệp: Mặc dù, sản xuất công nghiệp trong quý I tăng trưởng âm, nhưng nhờ có dòng sản phẩm mới được bán ở 120 quốc gia từ cuối tháng 4/2017 và nhà máy quy mô lớn mới của công ty SDV đi vào hoạt động từ tháng 8, nên sản xuất của khu vực FDI tăng cao. Đồng thời, sản xuất ở khu vực DN dân doanh đã phục hồi, nhất là ở các ngành nghề, làng nghề truyền thống, như: SX đồ gỗ, giấy, sắt thép, sản phẩm từ kim loại,..; các DN tiếp cận dễ dàng với nguồn vốn tín dụng và một số ngành nghề được hưởng ưu đãi về lãi suất tín dụng đã tích cực đầu tư mở rộng sản xuất, góp phần đưa sản xuất công nghiệp của Bắc Ninh tạo ra bước đột phá mới.
6.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP): Sản xuất công nghiệp tháng 12 có phần chững lại so tháng trước, nhưng vẫn tăng rất cao so cùng kỳ năm trước. Chỉ số IIP tháng 12, tuy chỉ tăng 0,5% so tháng trước nhưng vẫn tăng rất cao (+92%%) so cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 0,5% và tăng 92,7%; ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng... giảm 7,6% và tăng 22,5%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,6% và giảm 2,7%. Tính chung cả năm 2017, IIP toàn ngành công nghiệp tăng 37,2%; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 37,4%, ngành SX và PP điện tăng 21,1% và ngành cung cấp nước và xử lý nước thải tăng 7,8%. Sở dĩ, ngành CN chế biến chế tạo tăng cao so với năm 2016 là do từ tháng 8 Công ty SDV đưa vào vận hành nhà máy thứ ba, đưa quy mô gấp hơn 3 lần so cùng kỳ và trở thành công ty có quy mô lớn nhất trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, Công ty SEV liên tục nghiên cứu cho ra đời dòng sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, nên vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định, đã giúp cho ngành SXSP điện tử tăng 43,8% so với năm 2016. Ngoài ra, một số ngành nghề chủ lực của địa phương cũng có chỉ số tăng cao so với năm 2016, như: sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu (gấp 2 lần); sản xuất kim loại (+34,5%); sản xuất hóa chất (+11,1%); sản xuất xe có động cơ (+11%),... đã góp phần đưa chỉ số của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 37,4%.
6.2. Giá trị sản xuất: Sau 5 tháng đưa vào vận hành nhà máy thứ 3 của SDV với GTSX bình quân đạt 50 nghìn tỷ đồng/tháng, đã tạo ra bước đột phá mới cho ngành công nghiệp điện tử nói riêng và công nghiệp nói chung của tỉnh Bắc Ninh. Theo giá so sánh 2010, GTSX cả năm 2017 ước đạt 979.180 tỷ đồng, tăng 40,2% so với năm 2016. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 977.827 tỷ đồng, tăng 40,3%; ngành phân phối điện, khí đốt và nước đạt 694 tỷ đồng, tăng 14,7%; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải đạt 658 tỷ đồng, giảm 5,4%. Theo loại hình kinh tế, khu vực nhà nước, đạt 4.149 tỷ đồng, tăng 1,4%; khu vực ngoài Nhà nước đạt 69.269 tỷ đồng, tăng 6,8% so với năm 2016 và khu vực FDI đạt 905.762 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng tới 92,4%/GTSX toàn ngành và tăng 43,9%. Dự báo, những tháng đầu năm 2018 sản xuất của khu vực FDI sẽ duy trì mức tăng cao; trong khi sản xuất của khu vực trong nước tuy có thêm nhiều DN mới thành lập từ năm 2017 sẽ đi vào hoạt động, nhưng do ảnh hưởng của Tết Nguyên đán, nên mức tăng sẽ không lớn.
6.3. Sản phẩm công nghiệp: Trong năm, những sản phẩm có lượng xuất khẩu lớn và phù hợp nhu cầu tiêu dùng ở trong nước tăng đều có lượng sản xuất tăng cao so năm trước, như: màn hình các loại (gấp 5 lần); linh kiện điện tử (gấp 2 lần); sắt thép (+16,6%); bình đun nước nóng (+14,5%); vải tuyn (+14,8%); quần áo (+10%),... Tuy nhiên, cũng có không ít sản phẩm chưa thoát khỏi khó khăn, khó tiêu thụ ở trong nước do nhu cầu giảm hoặc không cạnh tranh được với hàng nhập khẩu có giá rẻ hơn, mẫu mã đẹp hơn, nên lượng sản xuất giảm là: thức ăn gia súc (-12,3%); kính các loại (-25,3%); giường và salon gỗ (-7%); máy in (-0,3%); giấy (-4,8%),... Nhìn chung, sản phẩm của khu vực trong nước vẫn có sức cạnh tranh yếu chất lượng còn hạn chế, mẫu mã chưa đẹp, thiếu sự liên kết giữa các khâu sản xuất - phân phối - bán hàng - dịch vụ hỗ trợ, nên khó tạo được sức bật trong thời gian ngắn.
7. Hoạt động thương mại và các ngành dịch vụ
7.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ: Do quy mô sản xuất tăng đã thu hút thêm hàng chục nghìn người lao động từ các tỉnh về làm việc, đồng thời do thu nhập của người lao động và của người dân Bắc Ninh đạt cao hơn mức bình quân chung của cả nước, nhất là lao động ở khu vực DN FDI, nên mức tiêu dùng nói chung của dân cư trên địa bàn tỉnh tăng cao. Để đáp ứng nhu cầu, nhiều DN và cơ sở KD thương mại đã đầu tư mở rộng quy mô, ngành nghề, đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh và các dịch vụ tiện ích phục vụ khách hàng. Trong năm, nhiều trung tâm thương mại, siêu thị khách sạn, nhà nghỉ mới đã được các DN, hộ dân khai trương trong các KCN, khu đông dân cư,... Bên cạnh đó, phúc lợi và an sinh xã hội được các cấp, các ngành quan tâm chăm lo và hỗ trợ kịp thời, nên tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ trên địa bàn tỉnh tăng khá. Tổng mức bán lẻ hàng hoá cả năm ước đạt 33.714 tỷ đồng, tăng 13,3% so với năm 2016. Trong đó, kinh tế cá thể tiếp tục chiếm thị phần lớn trên thị trường bán lẻ với tổng mức cả năm ước đạt 20.825 tỷ đồng, chiếm 61,8% va tăng 12,1% so với năm 2016. Trong khi đó, khối DN lại có thế mạnh về vốn, trình độ quản lý, sự năng động và tạo được sự liên kết từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ và dịch vụ hỗ trợ, nên tỷ trọng tăng dần qua các năm. Năm 2017, tổng mức bán lẻ của khối DN ước đạt 12.426 tỷ đồng, chiếm 36,9%; so với năm 2016, tăng 1,2% về tỷ trọng và tăng 15,3% về giá trị. Hầu hết các nhóm hàng chiếm tỷ trọng lớn đều duy trì mức tăng trưởng hai con số, như: lương thực, thực phẩm chiếm 36,6% và tăng 11,8%; đồ dùng, dụng cụ trang thiết bị gia đình chiếm 12,6% và tăng 10,5%; gỗ và VLXD chiếm 16,2% và tăng 20,8%; hàng may mặc chiếm 5,6% và tăng 19,1%. Điểm đáng lưu ý là, nhóm hàng ô tô tuy vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ (1,6%), nhưng đã đạt mức tăng cao nhất (+22,8%) trong năm, điều này cho thấy thu nhập và mức sống dân cư được cải thiện rõ nét và nhu cầu hưởng thụ cũng ngày càng gia tăng. Để đáp ứng nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ của hơn 200 nghìn lao động trong các khu, cụm công nghiệp, các làng nghề truyền thống, trong đó có khoảng hơn 5 nghìn chuyên gia nước ngoài đang làm việc và sinh hoạt trên địa bàn tỉnh. Đồng thời nhu cầu ăn uống ngoài gia đình của dân cư gia tăng, nên quy mô dịch vụ lưu trú và ăn uốngtiếp tục được mở rộng, trong đó có nhiều cơ sở của người nước ngoài. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống cả năm ước đạt 4.656 tỷ đồng, tăng 26,8% so với năm 2016; trong đó, dịch vụ ăn uống chiếm tới 94,1% và tăng 27,1%; doanh thu của khu vực FDI đạt 1.902,3 tỷ đồng, chiếm 40,9%, so với năm 2016 tăng 6,1% về tỷ trọng và tăng 48,8% về doanh thu. Quy mô các hoạt động dịch vụ khác cũng được mở rộng nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, người lao động trong các KCN tập trung và dân cư trên địa bàn tỉnh. Trong đó, các dịch vụ vui chơi giải trí, sửa chữa đồ dùng cá nhân có xu hướng tăng cao hơn. Tổng doanh thu hoạt động dịch vụ khác (không bao gồm dịch vụ công) ước đạt 6.270 tỷ đồng, tăng 14,8% so với năm 2016. Trong đó, dịch vụ kinh doanh bất động sản chiếm 72,9% và tăng 12,9%; dịch vụ hành chính hỗ trợ chiếm 12,2% và tăng 20,3%; dịch vụ vui chơi và giải trí chiếm 2,6% (tăng 0,4%) và tăng 31,6%; sửa chữa đồ dùng cá nhân chiếm 3,4% (+0,2%) và tăng 22,3% so với năm 2016.
7.2. Hoạt động ngoại thương
a) Xuất khẩu: Cùng với công nghiệp, hoạt động xuất khẩu cũng tạo được dấu ấn mới trong năm 2017 nhờ dòng điện thoại mới và màn hình tinh thể lỏng các loại được xuất khẩu khắp 5 châu. Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 29.590 triệu USD, tăng 29,6% so với năm 2016. Trong đó, khu vực FDI đạt 29.433 triệu USD, tăng 30%. Theo nhóm hàng, điện thoại các loại và linh kiện điện tử (bao gồm cả màn hình tinh thể lỏng) đạt 29.362,7 triệu USD, tăng 28,3% so với năm 2016; hàng dệt may đạt 153,8 triệu USD (+13,7%); chất dẻo 27 triệu USD (+25,6%); máy tính và phụ kiện đạt 1.716,7 triệu USD, gấp 2,2 lần so với năm 2016%. Trong khi đó, nhóm sản phẩm bằng gỗ và dây điện, cáp điện vẫn chưa tìm được đối tác mới nên kim ngạch xuất khẩu giảm. Về thị trường xuất khẩu, vẫn tập trung nhiều vào các thị trường truyền thống như: Châu Á với tỷ trọng chiếm 40,5%; Châu Âu chiếm 33,6% và Châu Mỹ 20,4%.
b) Nhập khẩu: Để đáp ứng nhu cầu sản xuất và xuất khẩu, các DN tiếp tục đẩy mạnh nhập khẩu nguyên liệu, linh kiện do các DN trong nước chưa đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật cao. Bên cạnh đó, một số DN FDI cũng nhập lượng lớn máy móc thiết bị, dây truyền sản xuất để lắp ráp nhà máy mới, nên kim ngạch nhập khẩu tăng cao. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2017 ước đạt 27.581,1 triệu USD, tăng 49,1% so với năm 2016. Trong đó, khu vực FDI đạt 27.246,2 triệu USD, chiếm 98,8% kim ngạch và tăng 51,8%. Hàng hoá hàng nhập chủ yếu là các linh kiện điện tử như chip, bo mạch, bảng mạch điện tử mà công nghệ trong nước chưa sản xuất được, với kim ngạch đạt 20.500,5 triệu USD, tăng 36,6%; máy móc thiết bị đạt 1.811,2 triệu USD, gấp gần 17 lần. Một số mặt hàng khá có tốc độ tăng cao, như: vải các loại (43,6%); phụ liệu hàng may mặc (+44,7%); giấy và bột giấy (gấp 2,2 lần); xơ, sợi dệt (+20,1%), chất dẻo (+43,6%). Thị trường nhập khẩu của các DN trên địa bàn tỉnh chủ yếu từ các nước thuộc Châu Á với tỷ trọng chiếm đến 80% và Châu Âu chiếm 13,8%.
7.3. Tình hình giá cả: Tháng 12, do ảnh hưởng của đợt rét đậm, nhóm cây thực phẩm có xu hướng tăng giá và lương thực cũng có xu hướng tăng vào dịp cuối năm; và giá dầu được điều chỉnh tăng từ ngày 5/12, sẽ tác động và làm CPI tháng 12 tăng khoảng 0,5% so với tháng trước. Tính chung cả năm 2017, so với tháng trước, CPI có xu hướng giảm trong 6 tháng đầu năm và tăng thấp trong 6 tháng cuối năm (tháng 8 có mức tăng cao nhất là 0,64%). Nguyên nhân tác động đến CPI có nhiều, nhưng trong đó có ba yếu tố chính đó là: (1) Do điều chỉnh giá xăng dầu tăng 13/22 lần (tính đến ngày 5/12/2017); (2) Do tăng giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ BHYT trong các cơ sở y tế của Nhà nước ; (3) Từ tháng 7, điều chính tăng tiền lương tối thiểu của khu vực HCSN và hưu trí. Và, có bốn yếu tố tác động giảm CPI là (i) Giá thực phẩm giảm, nhất là lợn hơi giảm sâu và giữ ở mức thấp trong thời gian dài; (ii) Giá lương thực giảm; (iii) Giá xăng dầu điều chỉnh giảm 9 lần; (iv) Chính phủ và địa phương tiếp tục cắt giảm thủ tục nhiều dịch vụ công, góp phần giảm chi phí đầu vào cho SX. Bên cạnh đó, công tác quản lý thị trường và kiểm tra thường xuyên của các ngành chức trong việc chấp hành các quy định của pháp luật giá, thuế, phí và đặc biệt là đối với những hàng hóa dịch vụ tiêu dùng thiết yếu; xử lý nghiêm khắc hành vi vi phạm; tổ chức giám sát chặt chẽ việc kê khai giá của các DN đối với mặt hàng bình ổn giá đã góp phần giữ cho CPI giữ ở mặt bằng thấp và lạm pháp được kiềm chế. Dự báo cả năm 2017 CPI bình quân tháng tăng khoảng 2% so cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng chung của cả nước (cả nước tăng gần 4%)
8. Hoạt động vận tải, du lịch và bưu chính viễn thông
8.1. Hoạt động vận tải: Trong năm 2017, giá xăng dầu đã điều chỉnh tăng 13 lần tăng và giảm 9 lần theo chu kỳ quy định, nhưng với mức biến động không lớn nên tác động không đáng kể đến hoạt động vận tải. Trong khi đó, để đáp ứng nhu cầu vận tải hàng hóa, nhu cầu đi lại của nhân dân và người lao động trong các KCN ngày càng tăng, hoạt động vận tải tiếp tục được mở rộng cả về quy mô và chất lượng dịch vụ, nhất là hoạt động vận tải hành khách và logistic. Vận tải hành khách: Tính đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 12 tuyến xe buýt nội tỉnh và 3 tuyến xe buýt ngoại tỉnh đi vào hoạt động để phục vụ nhân dân, người lao động và học sinh, sinh viên đi lại (tăng 3 tuyến nội tỉnh so với năm trước), nên hoạt động vận tải hành khách tăng khá so với năm trước. Khối lượng vận chuyển cả năm ước đạt 18,7 triệu lượt HK, tăng 14,5% so năm 2016; khối lượng luân chuyển đạt 884,6 triệu HK.km, tăng 16,6%. Trong đó, ngành đường bộ chiếm 91,1% khối lượng vận chuyển, tăng 15,4% và chiếm tới 99,9% về khối lượng luân chuyển, tăng 16,6% so với năm 2016. Vận tải hàng hoá, khối lượng vận chuyển cả năm ước đạt 36,3 triệu tấn, tăng 9,1%; khối lượng luân chuyển đạt 1.778 triệu tấn.km, tăng 9,5% so với năm 2016. Trong đó, ngành vận tải đường bộ chiếm tới 74,4% về vận chuyển và tăng 9,1%, nhưng chỉ chiếm 39,9% về luân chuyển và tăng 9,7%. Doanh thu vận tải cả năm ước đạt 5.816,6 tỷ đồng, tăng 13% so năm 2016. Trong đó, doanh thu đường bộ đạt 3.137 tỷ đồng, chiếm 53,9% và tăng 12,8%. Hoạt động kho bãi của Bắc Ninh tiếp tục được mở rộng về quy mô do có thêm nhiều DN tham gia cung ứng dịch vụ logictics cho các DN trong KCN, tổng doanh thu cả năm ước đạt 1.974,1 tỷ đồng, chiếm 33,9% doanh thu ngành vận tải và tăng 14,3% so với năm 2016. Trong đó, DN FDI ước đạt 1.631,8 tỷ đồng, chiếm 82,7% doanh thu logistic và tăng 14,1% so với năm 2016.
8.2. Du lịch: Nhằm thu hút du khách trong và ngoài nước tham gia vào loại hình du lịch tâm linh, Bắc Ninh tiếp tục ưu tiên đầu tư nâng cấp các di sản văn hóa tâm linh nổi tiếng. Đồng thời, đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá và phát triển du lịch, khu, tuyến, theo hướng gắn với các chương trình biểu diễn nghệ thuật hát “Dân ca Quan họ”, biểu diễn múa rối nước, thăm quan các làng nghề truyền thống. Trong các dịp lễ, Tết đã tổ chức thành công nhiều tour du lịch miễn phí tạo sự lan tỏa rộng rãi cho du khách, nên hoạt động du lịch đạt kết quả khá. Trong năm, toàn tỉnh đã đón 1,1 triệu lượt khách, tăng 26% so với năm 2016; trong đó có 100 nghìn lượt khách quốc tế, tăng 66,7%; tổng ngày khách ước đạt 742 nghìn.ngày, tăng 58,6%; tổng doanh thu phục vụ (bao gồm cả hoạt động lưu trú và ăn uống) ước đạt 710 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2016.
8.3. Thông tin và truyền thông: Trong năm, hoạt động thông tin và truyền thông được đẩy mạnh với nhiều sự kiện, như: tổ chức thành công ngày sách với chủ đề “Sách và sự phát triển tri thức cộng đồng”; thực hiện chuyển đổi mã vùng điện thoại cố định đảm bảo thông tin thông suốt, tăng cường dùng chung hạ tầng viễn thông và ngầm hóa mạng ngoại vi. Các dịch vụ bưu chính viễn thông tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án như: phủ sóng wifi trên địa bàn thành phố Bắc Ninh; nghiên cứu thị trường, khách hàng, mở rộng và nâng cao chất lượng mạng lưới, đa dạng hoá các dịch vụ, đổi mới phong cách phục vụ, tăng cường kinh doanh có hiệu quả các dịch vụ truyền thống, chủ động phát triển các dịch vụ mới... với mục tiêu đảm bảo thông tin liên lạc thông suốt đối với các tầng lớp dân cư trên địa bàn tỉnh. Năm 2017, toàn tỉnh phát triển mới 210,3 nghìn thuê bao điện thoại di động, nhưng cũng có 96,6 nghìn thuê bao cố định rời mạng. Lũy kế đến hết năm 2017, thuê bao điện thoại là 1.466,2 nghìn thuê bao, tăng 8,4% so cùng thời điểm năm 2016; mật độ đạt 121 thuê bao điện thoại/100 dân. Phát triển thêm được 20,8 nghìn thuê bao Internet, nâng tổng số thuê bao internet lũy kế là 526 nghìn thuê bao, tăng 4,1%; mật độ quy đổi đạt 131 thuê bao internet/100 dân. Ngoài ra, có khoảng hơn 50 nghìn hộ gia đình đăng ký sử dụng truyền hình và internet trực tuyến.
9. Các lĩnh vực xã hội
9.1. Dân số: Trong năm, quy mô công nghiệp tiếp tục được mở rộng, luồng di cư lao động đến Bắc Ninh tăng hơn, trong đó nhiều người đã nhập cư và sinh sống trên địa bàn tỉnh, đã tạo thêm không ít áp lực cho công tác dân số, chăm sóc sức khỏe và giáo dục đào tạo ở những địa phương dân số cơ học tăng nhanh. Với mục tiêu duy trì ổn định mức sinh hàng năm, UBND tỉnh đã chỉ đạo ngành Y tế thường xuyên quan tâm, hỗ trợ và tổ chức các chiến dịch truyền thông lồng ghép với dịch vụ sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình tại những địa bàn có đông công nhân KCN sinh sống, các xã có mức sinh cao và không ổn định nhằm quản lý và theo dõi mức sinh. Trong năm, toàn tỉnh đã có thêm 48.690 người sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại. Sơ bộ ước tính, dân số trung bình năm 2017 là 1.208,3 nghìn người, tăng 2,44% so với năm 2016; tỷ lệ sinh thô là 21,9‰ và tỷ lệ tăng tự nhiên là 14,7‰; so với năm 2016, tỷ lệ sinh thô giảm được 0,1‰; tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên lại tăng 2,1% so với năm 2016 và tỷ số giới tính khi sinh là 116,7 bé trai/100 bé gái, thấp hơn mức 117,6 bé trai/100 bé gái của năm 2016.
9.2. Đời sống dân cư và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững: Quy mô công nghiệp của khu vực FDI tăng nhanh đã thu hút nhiều lao động vào làm việc, sản xuất nông nghiệp cơ bản ổn định, hoạt động kinh doanh thương mại và dịch vụ được mở rộng cả về quy mô và số lượng cơ sở, giữ vững mức tăng trường hai con số. Ngoài ra, các DN trên địa bàn tỉnh đã triển khai 24 dự án nhà ở với tổng số 24.968 căn hộ, đáp ứng nhu cầu cho khoảng 144 nghìn lao động; trong đó có 8 dự án đã hoàn thành với 2.953 căn hộ, đáp ứng chỗ ở cho hơn 21 nghìn lao động. Ở khối DN, nhiều DN đã hướng tới việc chăm lo đời sống cho người lao động; trong đó các DN FDI hàng năm đều trích thưởng từ 1,5-2 tháng lương, tổ chức xe đưa đón người lao động đi làm, về quê trong các dịp nghỉ dài ngày, tổ chức các đợt nghĩ dưỡng, vui chơi giải trí,... Đây là những điều kiện thuận lợi giúp cho việc làm, thu nhập và đời của người lao động và nông dân tiếp tục được cải thiện trong năm qua. Tính chung cả năm, thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực DN đạt 7,2 triệu đồng/tháng, tăng từ 10-12% so với năm 2016. (trong đó, khối DN FDI đạt 8,5 triệu đồng, tăng trên 15%). Đối với khối HCSN và người nghỉ hưu, từ tháng 7, đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu thêm 7,4%. Bên cạnh đó, công tác phúc lợi và an sinh xã hội được tỉnh quan tâm hỗ trợ kịp thời bằng nhiều hình thức, như: trợ cấp tiền hàng tháng cho người từ đủ 70 tuổi trở lên, bổ sung chính sách cấp thẻ BHYT cho người từ đủ 65 tuổi đến 70 tuổi và hỗ trợ xây nhà ở, tiền điện cho hộ nghèo, hộ chính sách...nên thu nhập và đời sống của người nghỉ hưu, người cao tuổi, hộ nghèo, hộ chính sách được cải thiện hơn. Ở khu vực nông thôn, hạ tầng nông thôn được đầu tư, nâng cấp đồng bộ, theo tiêu chí nông thôn mới, sản xuất nông nghiệp ổn định nên đời sống dân cư ổn định; không có hộ, nhân khẩu thiếu đói. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tiếp tục được thực hiện có hiệu quả bằng nghiều hình thức và huy động từ nhiều nguồn vốn nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện sống cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Trong năm, TU, UBND tỉnh tiếp tục chỉ đạo thực hiện Đề án hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, phấn đấu đến hết năm 2017 sẽ đầu tư xóa nhà cấp 4 chất lượng kém trong toàn tỉnh. Bên cạnh đó, cấp uỷ, chính quyền địa phương các cấp và cộng đồng doanh nghiệp đã huy động các nguồn lực hỗ trợ hộ nghèo, sinh viên nghèo vượt khó bằng nhiều hình thức, nên nên tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo giảm nhanh, công tác xóa đói giảm nghèo theo xu hướng bền vững. Theo kết quả rà soát và được UBND tỉnh công bố ngày 23/11, toàn tỉnh hiện còn 6.743 hộ nghèo, chiếm 2,06% số hộ dân số trên địa bàn tỉnh; so với cuối năm 2016, đã giảm 1.538 hộ (tương ứng giảm 0,53%); số hộ cận nghèo còn 8.138 hộ, chiếm 2,49% hộ dân số; so với năm 2016, giảm 848 hộ (tương ứng giảm 0,32%). Công tác chăm sóc người có công, bảo trợ, an sinh và phúc lợi xã hội được các ngành, các cấp và các địa phương quan tâm, chỉ đạo thực hiện, với sự tham gia trợ giúp của cộng đồng DN đã góp phần ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Trong năm, đã tổ chức nhiều hoạt động nhân kỷ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sĩ; ban hành và thực hiện các cơ chế, chính sách đặc thù để chăm lo tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công như: hỗ trợ xây dựng nhà ở chăm sóc sức khỏe, ưu đãi tín dụng, đào tạo.
nghề, tạo việc làm; hỗ trợ tư liệu phát triển sản xuất; bố trí sắp xếp con liệt sỹ, thương binh nặng vào làm việc tại các cơ quan nhà nước; chăm sóc phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng; tu bổ xây dựng các công trình ghi công liệt sỹ, nâng cấp nghĩa trang liệt sỹ. Công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em thực hiện tốt; tổ chức thành công các buổi lễ trao tặng xe lăn, xe đẩy, học bổng, đồ dùng học tập, hợp đồng bảo hiểm, khám phẫu thuật mắt, sàng lọc phân loại dạng tật, cấp thẻ bảo hiểm y tế, thăm hỏi, tặng quà và tổ chức nhiều hoạt động có ý nghĩa vì trẻ em.
9.3. Lao động và việc làm: Công tác đào tạo lao động và giải quyết việc làm được quan tâm, hỗ trợ bằng nhiều hình thức, như: tổ chức dạy nghề ngắn hạn cho 16,63 nghìn lượt người; hỗ trợ cho 1.335 dự án vay vốn giải quyết việc làm với tổng dư nợ 61,2 tỷ đồng; hỗ trợ các công ty của Tập đoàn Samsung đào tạo 1.919 lao động với kinh phí 3,1 tỷ đồng; phối hợp với các công ty tổ chức tuyển dụng lao động trực tiếp. Tính chung cả năm, toàn tỉnh giải quyết việc làm mới được 27.000 lao động, tăng 0,2% so với năm 2016; trong đó 1.800 lao động đi làm việc ở nước ngoài (tăng 20% so với năm 2016). Ước tính đến cuối năm, toàn tỉnh có 667.300 lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế, tăng 1,9% so cuối năm 2016, đây là mức tăng khá cao so với bình quân chung cả nước. Qua đây cho thấy nhu cầu việc làm trong các DN trên địa bàn tỉnh vẫn rất lớn và chủ yếu phụ thuộc vào trình độ tay nghề của người lao động.
9.3. Giáo dục - Đào tạo: Năm học 2016-2017, ngành Giáo dục tiếp tục triển khai có hiệu quả đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo; công tác phổ cập giáo dục ở các cấp học tiếp tục được quan tâm và công nhận hoàn thành phổ cập giáo dục - xóa mù chữ các cấp học ở mức độ cao nhất; tổ chức thành công kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10 công lập, kỳ thi THPT quốc gia và công tác tuyển sinh năm 2017; đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn chiếm tỷ lệ 100%, trên chuẩn 85,3%, là một trong các tỉnh có đội ngũ giáo viên có trình độ trên chuẩn cao nhất cả nước; 100% giáo viên dạy ngoại ngữ trong trường phổ thông đạt trình độ chuẩn theo khung tham chiếu Châu Âu. Thực hiện tốt Chương trình sữa học đường ở 100% cơ sở giáo dục mầm non và mở rộng lên bậc tiểu học từ năm học 2017-2018. Đầu năm học 2017-2018, UBND tỉnh đã ban hành chính sách phát triển chất lượng giáo dục mũi nhọn trường THPT Chuyên Bắc Ninh và 8 trường THCS trọng điểm của 8 huyện, thị xã và thành phố; Kế hoạch thực hiện Đề án “Tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2017-2020, định hướng đến năm 2025”. Cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học được đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ, hiện đại; tỷ lệ kiên cố hoá phòng học đạt 98,5%; tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 91,4%, là tỉnh có tỷ lệ kiên cố hoá phòng học và trường chuẩn quốc gia các cấp học cao nhất cả nước. Theo số liệu sơ bộ, đầu năm học toàn tỉnh có 493 trường mầm non và phổ thông các cấp, với 9.956 phòng học và có 10.546 lớp học, 324.880 học sinh; 16.526 giáo viên; so với năm học trước, tăng thêm 3 trường, tăng 1.124 phòng học, tăng 592 lớp học, tăng 16.946 học sinh và tăng 1.115 giáo viên.
9.4. Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng: Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, quản lý nhà nước về y tế ngoài công lập được tăng cường; nâng cao hiệu quả và thực hiện tốt công tác y tế dự phòng; chủ động phòng, chống, phát hiện và khống chế không để dịch lớn xảy ra; tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế, đa dạng hóa các loại hình khám chữa bệnh; tổ chức tiêm chủng đủ miễn dịch cơ bản cho trẻ em trong độ tuổi; tiếp tục đầu tư nâng cấp trang thiết bị và ứng dụng kỹ thuật mới nhằm nâng cao chất lượng công tác điều trị; lắp đặt máy điều hòa nhiệt độ ở các bệnh viện tỉnh và huyện để phục vụ người bệnh. Đến cuối năm toàn tỉnh (không kể trạm y tế cấp xã) đã có 3.798 giường bệnh, đạt 31,1 giường bệnh/1 vạn dân; 1.265 bác sỹ, bình quân đạt 10 bác sỹ/1 vạn dân. Trong năm, các cơ sở y tế tuyến tỉnh và huyện đã khám chữa bệnh cho 1.933,3 nghìn lượt người, tăng 10,5% so năm trước, trong đó điều trị nội trú cho 205,5 nghìn lượt người, tăng 26,8%, Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, bà mẹ và trẻ em được quan tâm và đạt kết quả khá. Tỷ lệ trẻ em trong độ tuổi được tiêm chủng đủ miễn dịch cơ bản đạt 98%; tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng theo độ tuổi trẻ em dưới 5 tuổi còn 9,6%. Tuy nhiên, do số lượt người khám, chữa bệnh hàng năm tăng cao, cơ sở hạ tầng và đội ngũ cán bộ ngành y không được tăng tương ứng, đã tạo áp lực cho công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất là ở một số bệnh viện tuyến tỉnh, là nguyên nhân xảy ra một vài sự cố y khoa đáng tiếc.
9.5. Văn hoá, thông tin và thể dục thể thao: Hoạt động văn hóa thông tin được định hướng tuyên truyền đúng nội dung, có trọng tâm trọng điểm gắn với các nhiệm vụ chính trị của địa phương, ngày kỉ niệm, ngày lễ, dịp học tập nghị quyết Đảng. Hoạt động văn nghệ được tổ chức sôi nổi, phong phú, ý nghĩa, đáp ứng nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ của nhân dân. Trong đó, đáng chú ý là đã tổ chức thành công chuỗi các hoạt động chào mừng kỷ niệm 185 năm thành lập và 20 năm tái lập tỉnh và đón nhận Huân chương độc lập hạng nhất, chương trình nghệ thuật “Âm vang Miền quan họ”; kỷ niệm 940 năm chiến thắng Như Nguyệt; 105 năm ngày sinh Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ; các hoạt động giao lưu văn hóa Nhật Bản; định kỳ tổ chức hát Quan họ trên thuyền tại Hồ Nguyên Phi Ỷ Lan, khu vực tượng đài Lý Thái Tổ và một số các hoạt động văn hóa ngoài trời khác nhằm phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân và góp phần quảng bá hình ảnh Bắc Ninh năng động và phát triển. Các hoạt động quản lý, bảo tồn các di sản, di tích văn hóa, lịch sử được quan tâm, hỗ trợ về kinh phí; thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, tổ chức lễ hội tạo nhiều chuyển biến tích cực và dư luận tốt trong xã hội, quan tâm, nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trọng tâm là xây dựng làng, khu phố và gia đình văn hóa; đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Min; tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, quản lý di tích, lễ hội và các hoạt động, kinh doanh dịch vụ văn hóa. Thể thao thành tích cao và các phong trào thể thao quần chúng được quan tâm phát triển, chất lượng được nâng lên. Trong năm, các VĐV đã giành được 205 huy chương các loại (160 huy chương quốc gia; 45 huy chương quốc tế); tổ chức thành công nhiều giải thể thao trong nước và quốc tế như giải Bóng chuyền nữ quốc tế Cup Lienvietprostbank; Ngày chạy Olympic vì sức khỏe toàn dân; giải vô địch Boxing nam nữ toàn quốc... Đặc biệt, ngày 3/11 UBND tỉnh Bắc Ninh đã chính thức ra mắt Đội Bóng chuyền nữ Kinh Bắc gồm 20 VĐV và 3 HLV. Hiện nay, đang chuẩn bị các điều kiện để tổ chức Đại hội thể dục thể thao cấp tỉnh lần thứ VIII.
9.6. An ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội: An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hộ được đảm bảo, không xảy ra các vụ việc phức tạp, kéo dài ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội và cuộc sống của nhân dân. Ngành Công an đã phối hợp với chính quyền các địa phương tập trung lực lượng, tổ chức bám sát cơ sở để nắm bắt tình hình, điều tra giải quyết các vụ án, xử lý các điểm nóng trong giải phóng hạ tầng KCN, đường giao thông, khu nhà ở xã hội,… Đồng thời, tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về TTATXH. Trong năm, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 726 vụ phạm pháp hình sự, giảm 34 vụ so với năm 2016; phát hiện và bắt giữ 1.320 vụ mua bán, vận chuyển, tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, với 1.777 đối tượng và thu giữ 27,5 kg ma túy các loại; so với năm 2016 tăng 733 vụ, tăng 1.043 đối tượng và tăng 18,7 kg ma túy; toàn tỉnh có 1.323 đối tượng nghiên ma túy được quản lý, so với năm 2016 tăng thêm 309 đối tượng nghiện. An toàn giao thông: Công tác điều tiết, kiểm tra, kiểm soát giữ gìn trật tự an toàn giao thông được thực hiện quyết liệt, nghiêm túc. Các lực lượng CSGT phối hợp với các ngành chức năng triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, tập trung ở những địa bàn trọng điểm và các đối tượng học sinh, người dân sử dụng xe đạp điện; xử lý phương tiện giao thông đường bộ hết niên hạn sử dụng, quá hạn kiểm định. Trong năm, các lực lượng công an đã phát hiện và xử lý 32,7 nghìn trường hợp vi phạm Luật Giao thông đường bộ, thu nộp kho bạc Nhà nước 21,3 tỷ đồng; so với năm 2016, giảm 8,3 nghìn trường hợp và giảm 7,4 tỷ đồng. Vì thế, trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực. Trong năm, toàn tỉnh xảy ra 119 vụ tai nạn, làm chết 88 người và bị thương 56 người; so với năm 2016, giảm 2 vụ, giảm 2 người chết và tăng 7 người bị thương.
9.7. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường: Trong năm, toàn tỉnh đã xảy ra 25 vụ cháy, nổ các loại, làm chết 2 người và gây thiệt hại về kinh tế 23,3 tỷ đồng; so với năm 2016, giảm 5 vụ, tăng 2 người chết và giảm 13 tỷ đồng về giá trị thiệt hại. Các lực lượng chức năng đã phát hiện và xử lý 358 vụ vi phạm pháp luật về môi trường và an toàn thực phẩm, qua điều tra đã làm rõ xử lý hành chính 339 vụ, thu nộp Kho bạc Nhà nước 5,7 tỷ đồng; so với với năm 2016, tăng 24 vụ và tăng 0,5 tỷ đồng về tiền phạt.
Báo cáo chi tiết tại đây.