Tình hình Kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh tháng 12 năm 2017

30/12/2017 16:37

Theo báo cáo của Cục thống kê, tình hình Kinh tế xã hội tỉnh trong tháng 12 năm 2017 như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2017 (giá so sánh 2010) ước đạt 141.980 tỷ đồng, tăng 19,12% so với năm 2016. Trong đó, khu vực công nghiệp - xây dựng tăng 23,27% và đóng góp tới 17,03 điểm phần trăm tăng trưởng; khu vực dịch vụ tăng 8,93% và đóng góp 2,1 điểm phần trăm; còn khu vực NLTS giảm 0,39% và làm giảm 0,01 điểm phần trăm tăng trưởng.

2. Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm

2.1. Tài chính

Tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn năm 2017 ước đạt 21.598 tỷ đồng, vượt 12,8% dự toán năm và tăng 21,3% so với năm 2016. Trong đó, thu nội địa chiếm 74,1% và vượt 11,5% dự toán; so với năm 2016, tăng 4,6% về tỷ trọng và tăng tới 29,3% về số tiền. Tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 14.444 tỷ đồng, vượt 23,3% dự toán và tăng 16,6% so với năm 2016. Trong đó, chi cho đầu tư phát triển chiếm 36,1%, vượt tới 98,5% dự toán, và giảm 7,9% so với năm 2016 ; chi thường xuyên đạt 8.376 tỷ đồng, chiếm 48%, vượt 2,5% dự toán, và tăng 44,3%. 

2.2. Ngân hàng - Tín dụng

Đến cuối tháng 12, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 90.000 tỷ đồng, tăng 31,6% so với cuối năm 2016. Trong đó, tiền gửi dân cư đạt 56.951 tỷ đồng và tăng 36,5%. Tổng dư nợ tín dụng đến cuối tháng 12 ước đạt 70.000 tỷ đồng, tăng 23,6% so với cuối năm 2016. Tổng thu tiền mặt cả năm ước đạt 416.550 tỷ đồng, tăng 26,7% so với năm 2016. Tổng chi tiền mặt ước đạt 412.096 tỷ đồng, tăng 25,9%. Bội thu cả năm đạt 4.454  tỷ đồng, gấp gần 3 lần năm 2016.

2.3. Bảo hiểm xã hội

Công tác bảo hiểm nói chung và bảo hiểm y tế nói riêng tiếp tục được các ngành, các địa phương triển khai rộng khắp với mục tiêu đảm bảo an sinh cho xã hội, nhất là người lao động và các hộ gia đình chưa có bảo hiểm y tế. Đến cuối năm, toàn tỉnh có 1.091,1 nghìn người tham gia đóng bảo hiểm các loại, chiếm 90,3%/tổng dân số; so cùng kỳ năm trước tăng 5% về tỷ lệ so với dân số và tăng 7,2% về số người tham gia bảo hiểm. Trong đó, có 1.087,8 nghìn người tham gia bảo hiểm y tế, đạt 90% tổng dân số toàn tỉnh, tăng 7,2% so với năm 2016.

3. Vốn đầu tư và xây dựng

3.1. Hoạt động đầu tư: Tổng vốn đầu tư phát triển cả năm 2017 ước đạt 119.273,5 tỷ đồng, tăng 52,7% so với năm 2016. Trong đó, vốn nhà nước đạt 4.403,6 tỷ đồng, chỉ chiếm 3,7% và tăng 4,8% so với năm 2016; vốn ngoài nhà nước đạt 23.204 tỷ đồng, chiếm 19,5% và tăng 6,5%; vốn FDI đạt 91.665,8  tỷ đồng, chiếm 76,8% và tăng 76%. 

3.2. Tình hình thu hút và thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài

Tính đến 15/12/2017, cấp mới đăng ký đầu tư 160 dự án và cấp điều chỉnh vốn cho 115 dự án với số vốn đăng ký mới và sau điều chỉnh đạt 3,5 tỷ USD. Lũy kế đến nay, Bắc Ninh cấp đăng ký đầu tư cho 1.112 dự án FDI (còn hiệu lực) với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 15,92 tỷ USD. Tính chung cả năm, các dự án FDI đã giải ngân và thực hiện vốn đầu tư đạt 91.665,8 tỷ đồng (tương đương 4,13 tỷ USD). 

3.3. Xây dựng

Mặc dù, vốn đầu tư của khu vực FDI trong năm tăng cao, nhưng chủ yếu là lắp đặt dây truyền và mua sắm TCSĐ dùng cho sản xuất, nên giá trị xây lắp tăng không tương ứng với mức tăng tổng vốn đầu tư. GTSX xây dựng cả năm 2017 theo giá so sánh 2010 ước đạt 20.003 tỷ đồng, tăng 9,1% so với năm 2016.

4. Thành lập mới và tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Tính từ ngày 01/01 đến 15/12, đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 1.950 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký là 13.890 tỷ đồng; lũy kế đến hết 2017, có 10.859 doanh nghiệp đăng ký theo Luật DN với tổng vốn 143.911 tỷ đồng. Trong 11 tháng, đã có 309 DN phải tạm ngừng KD và 625 DN bị đóng cửa mã số thuế (trong đó có 69 DN FDI).

5.  Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

5.1. Nông nghiệp

a) Về trồng trọt: 

Năm 2017, tổng diện tích gieo trồng đạt 83.348 ha, giảm 2,6% (tương ứng giảm 2.233 ha) so với năm 2016. Trong đó, diện tích lúa là 69.086 ha, giảm 2,4% (-1.695  ha), năng suất đạt 60,7 tạ/ha (-1,3 tạ/ha) và sản lượng đạt 419,3 nghìn tấn, giảm 19,8 nghìn tấn so với năm 2016. Tính chung, giá trị sản xuất trồng trọt (theo giá so sánh 2010) ước đạt 3.494,4 tỷ đồng, giảm 0,8%. Theo giá hiện hành, GTSX ước đạt 4.034,7 tỷ đồng, tăng 0,1%, trong đó giá trị từ các mô hình CNC đã chiếm 16,3%/GTSX. Giá trị trồng trọt tính trên 1 ha canh tác (giá hiện hành) đạt 92,7 triệu đồng, tăng 0,7% so năm trước.

b) Chăn nuôi: Trong năm, do giá thịt lợn hơi giảm sâu và giữ ở mức thấp trong thời gian dài, đã làm người chăn nuôi truyền thống thua lỗ, nên tổng đàn lợn sụt giảm. Tại thời điểm 01/10, đàn trâu còn 2.375 con, tăng 7 con so cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 32.150 con (-453 con); đàn lợn có 384.397 con (-33.881 con); đàn gia cầm có 4.853 nghìn con (+60 nghìn con so cùng thời điểm năm trước). Tổng sản lượng thịt gia súc gia cầm xuất chuồng đạt 90.438 tấn, giảm 3.285 tấn. Giá trị sản xuất ngành chăn nuôi (giá so sánh 2010) cả năm ước đạt 3.554,4 tỷ đồng, giảm 0,9% so với năm 2016.

5.2. Lâm nghiệp: Toàn tỉnh đã trồng được 330 nghìn cây, chăm sóc 48,9 ha rừng và bảo vệ 416,9 diện tích rừng hiện có. Xảy ra 5 vụ cháy rừng, làm thiệt hại 5,6 ha rừng với giá trị thiệt hại ước tính 1.200 triệu đồng; so cùng kỳ, giảm 3 vụ, giảm 1,1 ha rừng bị cháy, nhưng mức thiệt hại tăng 700 triệu đồng; khai thác 4.300 m3, giảm 5,4% và 5.900 Ste củi, giảm 3,5%. GTSX lâm nghiệp đạt 22,2 tỷ đồng, giảm 2,7% so với năm trước.

5.3. Thuỷ sản: Trong năm, diện tích nuôi trồng tiếp tục giảm và năng suất nuôi trong nhiều hồ, ao truyền thống không cao, nhưng nhờ có thêm nhiều cơ sở ứng dụng CNC trong nuôi trồng và mở rộng mô hình nuôi thủy sản lồng bè trên sông đã góp phần tăng sản lượng thủy sản. Đến cuối năm, toàn tỉnh có 1.512 lồng nuôi cá với thể tích 163,3 nghìn m3; so với năm 2016, tăng 577 lồng và tăng 65,1 nghìn m3. Sản lượng thuỷ sản thu hoạch cả năm ước đạt 37.515 tấn, tăng 2,7% (+987 tấn) . Giá trị sản xuất thuỷ sản (giá so sánh 2010) đạt 1.118 tỷ đồng, tăng 1,6% so với năm 2016.

6. Sản xuất công nghiệp

6.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Sản xuất công nghiệp tháng 12 có phần chững lại so tháng trước, nhưng vẫn tăng rất cao so cùng kỳ năm trước. Chỉ số IIP tháng 12, tuy chỉ tăng 0,5% so tháng trước nhưng vẫn tăng rất cao (+92%%) so cùng tháng năm trước. Tính chung cả năm 2017, IIP toàn ngành công nghiệp tăng 37,2%; trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 37,4%, ngành SX và PP điện tăng 21,1% và ngành cung cấp nước và xử lý nước thải tăng 7,8%. Sở dĩ, ngành CN chế biến chế tạo tăng cao so với năm 2016 là do từ tháng 8 Công ty SDV đưa vào vận hành nhà máy thứ  ba, đưa quy mô gấp hơn 3 lần so cùng kỳ và trở thành công ty có quy mô lớn nhất trên địa bàn tỉnh. Bên cạnh đó, Công ty SEV liên tục nghiên cứu cho ra đời dòng sản phẩm mới để đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế, nên vẫn duy trì mức tăng trưởng ổn định, đã giúp cho ngành SXSP điện tử tăng 43,8% so với năm 2016. Ngoài ra, một số ngành nghề chủ lực của địa phương cũng có chỉ số tăng cao so với năm 2016, như: sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu (gấp 2 lần); sản xuất kim loại (+34,5%); sản xuất hóa chất (+11,1%); sản xuất xe có động cơ (+11%),... đã góp phần đưa chỉ số của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 37,4%.

6.2. Giá trị sản xuất

Theo giá so sánh 2010, GTSX cả năm 2017 ước đạt 979.180 tỷ đồng, tăng 40,2% so với năm 2016. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đạt 977.827 tỷ đồng, tăng 40,3%; ngành phân phối điện, khí đốt và nước đạt 694 tỷ đồng, tăng 14,7%; ngành cung cấp nước và xử lý nước thải đạt 658 tỷ đồng, giảm 5,4%. 

7. Hoạt động thương mại và các ngành dịch vụ

7.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ

Tổng mức bán lẻ hàng hoá cả năm ước đạt 33.714 tỷ đồng, tăng 13,3% so với năm 2016. Trong đó, kinh tế cá thể  tiếp tục chiếm thị phần lớn trên thị trường bán lẻ với tổng mức cả năm ước đạt 20.825 tỷ đồng, chiếm 61,8% va tăng 12,1% so với năm 2016. Trong khi đó, khối DN lại có thế mạnh về vốn, trình độ quản lý, sự năng động và tạo được sự liên kết từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ và dịch vụ hỗ trợ, nên tỷ trọng tăng dần qua các năm, tổng mức bán lẻ của khối DN ước đạt 12.426 tỷ đồng, chiếm 36,9%; so với năm 2016, tăng 1,2% về tỷ trọng và tăng 15,3% về giá trị. Tổng doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống cả năm ước đạt 4.656 tỷ đồng, tăng 26,8% so với năm 2016. Tổng doanh thu hoạt động dịch vụ khác (không bao gồm dịch vụ công) ước đạt 6.270 tỷ đồng, tăng 14,8%. 

7.2. Hoạt động ngoại thương

Tổng kim ngạch xuất khẩu cả năm ước đạt 29.590 triệu USD, tăng 29,6% so với năm 2016. Trong đó, khu vực FDI đạt 29.433 triệu USD, tăng 30%. Theo nhóm hàng, điện thoại các loại và linh kiện điện tử (bao gồm cả màn hình tinh thể lỏng) đạt 29.362,7 triệu USD, tăng 28,3% so với năm 2016. Tổng kim ngạch nhập khẩu năm 2017 ước đạt 27.581,1 triệu USD, tăng 49,1% so với năm 2016. Trong đó, khu vực FDI đạt 27.246,2 triệu USD, chiếm 98,8% kim ngạch và tăng 51,8%. 

  7.3. Tình hình giá cả: Tháng 12, do ảnh hưởng của đợt rét đậm, nhóm cây thực phẩm có xu hướng tăng giá và lương thực cũng có xu hướng tăng vào dịp cuối năm; và giá dầu được điều chỉnh tăng từ ngày 5/12, sẽ tác động và làm CPI tháng 12 tăng khoảng 0,5% so với tháng trước. Dự báo cả năm 2017 CPI bình quân tháng tăng khoảng 2% so cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức tăng chung của cả nước (cả nước tăng gần 4%)

8. Hoạt động vận tải, du lịch và bưu chính viễn thông

8.1. Hoạt động vận tải 

Vận tải hành khách: Khối lượng vận chuyển cả năm ước đạt 18,7 triệu lượt HK, tăng 14,5% so năm 2016; khối lượng luân chuyển đạt 884,6 triệu HK.km, tăng 16,6%. Trong đó, ngành đường bộ chiếm 91,1% khối lượng vận chuyển, tăng 15,4% và chiếm tới 99,9% về khối lượng luân chuyển, tăng 16,6% so với năm 2016. Vận tải hàng hoá, khối lượng vận chuyển cả năm ước đạt 36,3 triệu tấn, tăng 9,1%; khối lượng luân chuyển đạt 1.778 triệu tấn.km, tăng 9,5% so với năm 2016. Trong đó, ngành vận tải đường bộ chiếm tới 74,4% về vận chuyển và tăng 9,1%, nhưng chỉ chiếm 39,9% về luân chuyển và tăng 9,7%. Doanh thu vận tải cả năm ước đạt 5.816,6 tỷ đồng, tăng 13% so năm 2016. 

8.2. Du lịch: Nhằm thu hút du khách trong và ngoài nước tham gia vào loại hình du lịch tâm linh, Bắc Ninh tiếp tục ưu tiên đầu tư nâng cấp các di sản văn hóa tâm linh nổi tiếng. Trong năm, toàn tỉnh đã đón 1,1 triệu lượt khách, tăng 26% so với năm 2016; trong đó có 100 nghìn lượt khách quốc tế, tăng 66,7%; tổng ngày khách ước đạt 742 nghìn.ngày, tăng 58,6%; tổng doanh thu phục vụ (bao gồm cả hoạt động lưu trú và ăn uống) ước đạt 710 tỷ đồng, tăng 21% so với năm 2016.

8.3. Thông tin và truyền thông:  Năm 2017, toàn tỉnh phát triển mới 210,3 nghìn thuê bao điện thoại di động, nhưng cũng có 96,6 nghìn thuê bao cố định rời mạng. Lũy kế đến hết năm 2017, thuê bao điện thoại là 1.466,2 nghìn thuê bao, tăng 8,4% so cùng thời điểm năm 2016. Phát triển thêm được 20,8 nghìn thuê bao Internet, nâng tổng số thuê bao internet lũy kế là 526 nghìn thuê bao, tăng 4,1%. 

9. Các lĩnh vực xã hội

9.1. Dân số: Trong năm, quy mô công nghiệp tiếp tục được mở rộng, luồng di cư lao động đến Bắc Ninh tăng hơn, trong đó nhiều người đã nhập cư và sinh sống trên địa bàn tỉnh, đã tạo thêm không ít áp lực cho công tác dân số, chăm sóc sức khỏe và giáo dục đào tạo ở những địa phương dân số cơ học tăng nhanh. Trong năm, toàn tỉnh đã có thêm 48.690 người sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại. Sơ bộ ước tính, dân số trung bình năm 2017 là 1.208,3 nghìn người, tăng 2,44% so với năm 2016; tỷ lệ sinh thô là 21,9‰ và tỷ lệ tăng tự nhiên là 14,7‰ 

9.2. Đời sống dân cư và thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững

Tính chung cả năm, thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực DN đạt 7,2 triệu đồng/tháng, tăng từ 10-12% so với năm 2016 (trong đó, khối DN FDI đạt 8,5 triệu đồng, tăng trên 15%). Đối với khối HCSN và người nghỉ hưu, từ tháng 7, đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu thêm 7,4%. Theo kết quả rà soát và được UBND tỉnh công bố ngày 23/11, toàn tỉnh hiện còn 6.743 hộ nghèo, chiếm 2,06% số hộ dân số trên địa bàn tỉnh; so với cuối năm 2016, đã giảm 1.538 hộ (tương ứng giảm 0,53%); số hộ cận nghèo còn 8.138 hộ, chiếm 2,49% hộ dân số; so với năm 2016, giảm 848 hộ (tương ứng giảm 0,32%). 

9.3. Lao động và việc làm 

Tính chung cả năm, toàn tỉnh giải quyết việc làm mới được 27.000 lao động, tăng 0,2% so với năm 2016; trong đó 1.800 lao động đi làm việc ở nước ngoài (tăng 20% so với năm 2016). Ước tính đến cuối năm, toàn tỉnh có 667.300 lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế, tăng 1,9% so cuối năm 2016, đây là mức tăng khá cao so với bình quân chung cả nước. Qua đây cho thấy nhu cầu việc làm trong các DN trên địa bàn tỉnh vẫn rất lớn và chủ yếu phụ thuộc vào trình độ tay nghề của người lao động.

9.3. Giáo dục - Đào tạo

Năm học 2016-2017, ngành Giáo dục tiếp tục triển khai có hiệu quả đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên đạt chuẩn chiếm tỷ lệ 100%, trên chuẩn 85,3%, là một trong các tỉnh có đội ngũ giáo viên có trình độ trên chuẩn cao nhất cả nước; 100% giáo viên dạy ngoại ngữ trong trường phổ thông đạt trình độ chuẩn theo khung tham chiếu Châu Âu. Tỷ lệ kiên cố hoá phòng học đạt 98,5%; tỷ lệ trường chuẩn quốc gia đạt 91,4%, là tỉnh có tỷ lệ kiên cố hoá phòng học và trường chuẩn quốc gia các cấp học cao nhất cả nước. Theo số liệu sơ bộ, đầu năm học toàn tỉnh có 493 trường mầm non và phổ thông các cấp, với 9.956 phòng học và có 10.546 lớp học, 324.880 học sinh; 16.526 giáo viên; so với năm học trước, tăng thêm 3 trường, tăng 1.124 phòng học, tăng 592 lớp học, tăng 16.946 học sinh và tăng 1.115 giáo viên.

9.4. Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng 

Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng, quản lý nhà nước về y tế ngoài công lập được tăng cường; nâng cao hiệu quả và thực hiện tốt công tác y tế dự phòng; chủ động phòng, chống, phát hiện và khống chế không để dịch lớn xảy ra. Đến cuối năm toàn tỉnh (không kể trạm y tế cấp xã) đã có 3.798 giường bệnh, đạt 31,1 giường bệnh/1 vạn dân; 1.265 bác sỹ, bình quân đạt 10 bác sỹ/1 vạn dân. Trong năm, các cơ sở y tế tuyến tỉnh và huyện đã khám chữa bệnh cho 1.933,3 nghìn lượt người, tăng 10,5% so năm trước, trong đó điều trị nội trú cho 205,5 nghìn lượt người, tăng 26,8%, 

9.5. Văn hoá, thông tin và thể dục thể thao

Hoạt động văn hóa thông tin được định hướng tuyên truyền đúng nội dung, có trọng tâm trọng điểm gắn với các nhiệm vụ chính trị của địa phương, ngày kỉ niệm, ngày lễ, dịp học tập nghị quyết Đảng. Thể thao thành tích cao và các phong trào thể thao quần chúng được quan tâm phát triển, chất lượng được nâng lên. Trong năm, các VĐV đã giành được 205 huy chương các loại (160 huy chương quốc gia; 45 huy chương quốc tế). Đặc biệt, ngày 3/11 UBND tỉnh Bắc Ninh đã chính thức ra mắt Đội Bóng chuyền nữ Kinh Bắc gồm 20 VĐV và 3 HLV. Hiện nay, đang chuẩn bị các điều kiện để tổ chức Đại hội thể dục thể thao cấp tỉnh lần thứ VIII.

9.6. An ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội

An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hộ được đảm bảo, không xảy ra các vụ việc phức tạp, kéo dài ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội và cuộc sống của nhân dân. Trong năm, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 726 vụ phạm pháp hình sự, giảm 34 vụ so với năm 2016; phát hiện và bắt giữ 1.320 vụ mua bán, vận chuyển, tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, với 1.777 đối tượng và thu giữ 27,5 kg ma túy các loại; so với năm 2016 tăng 733 vụ, tăng 1.043 đối tượng và tăng 18,7 kg ma túy; toàn tỉnh có 1.323 đối tượng nghiên ma túy được quản lý, so với năm 2016 tăng thêm 309 đối tượng nghiện.

An toàn giao thông: Công tác điều tiết, kiểm tra, kiểm soát giữ gìn trật tự an toàn giao thông được thực hiện quyết liệt, nghiêm túc. Trong năm, các lực lượng công an đã phát hiện và xử lý 32,7 nghìn trường hợp vi phạm Luật Giao thông đường bộ, thu nộp kho bạc Nhà nước 21,3 tỷ đồng; so với năm 2016, giảm 8,3 nghìn trường hợp và giảm 7,4 tỷ đồng. Vì thế, trật tự an toàn giao thông có chuyển biến tích cực. Trong năm, toàn tỉnh xảy ra 119 vụ tai nạn, làm chết 88 người và bị thương 56 người; so với năm 2016, giảm 2 vụ, giảm 2 người chết và tăng 7 người bị thương.

9.7. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường

Trong năm, toàn tỉnh đã xảy ra 25 vụ cháy, nổ các loại, làm chết 2 người và gây thiệt hại về kinh tế 23,3 tỷ đồng; so với năm 2016, giảm 5 vụ, tăng 2 người chết và giảm 13 tỷ đồng về giá trị thiệt hại. Các lực lượng chức năng đã phát hiện và xử lý 358 vụ vi phạm pháp luật về môi trường và an toàn thực phẩm, qua điều tra đã làm rõ xử lý hành chính 339 vụ, thu nộp Kho bạc Nhà nước 5,7 tỷ đồng; so với với năm 2016, tăng 24 vụ và tăng 0,5 tỷ đồng về tiền phạt.

Biểu KTXH tháng 12 năm 2017.