Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh tháng 12 năm 2018

28/12/2018 10:17

Theo báo cáo của Cục Thống kê, tình hình Kinh tế xã hội tỉnh trong tháng 12 và cả năm 2018 như sau:

1. Tăng trưởng kinh tế

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) năm 2018 (giá so sánh 2010) ước đạt 161.708 tỷ đồng, tăng 10,6% so với năm 2017. Trong đó, khu vực NLTS đạt mức tăng khá (+2,52%) sau hai năm liên tục giảm và đóng góp 0,07 điểm phần trăm tăng trưởng. Giá trị tăng thêm khu vực này (theo giá so sánh 2010) ước đạt4.022,8 tỷ đồng; khu vực công nghiệp - xây dựng giá trị tăng thêm (theo giá so sánh 2010) ước đạt 125.983,5 tỷ đồng, tăng 11,6% và đóng góp 8,96 điểm phần trăm tăng trưởng; khu vực dịch vụ giá trị tăng thêm (theo giá so sánh 2010) ước đạt 24.997,6 tỷ đồng, tăng 7,32% và đóng góp 1,17 điểm phần trăm; thuế sản phẩm tăng 9,75% và đóng góp 0,41 điểm phần trăm. Về cơ cấu kinh tế, tỷ trọng khu vực NLTS từ 2,8% năm 2017 giảm xuống còn 2,7% năm 2018; tương tự, tỷ trọng khu vực dịch vụ từ 16,9% còn 16,6%, thuế sản phẩm từ 4,2% còn 4,1%; riêng tỷ trọng khu vực CN-XD từ 76,1% tăng lên 76,6%. GRDP bình quân đầu người đạt 150,1 triệu USD (tương đương gần 6.500 USD), tăng 8,7% so với năm 2017.

2. Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm

2.1. Tài chính

Tính chung cả năm, tổng thu NSNN trên địa bàn ước đạt 27.911,9 tỷ đồng, vượt 17% dự toán năm và tăng 24% so với năm 2017. Trong đó, thu nội địa chiếm 77,6% và vượt 20,5% dự toán; so với năm 2017, tăng 2,8% về tỷ trọng và tăng tới 28,6% về giá trị. Kim ngạch xuất nhập khẩu gia tăng, nên thu thuế cũng tăng khá. Ước tính cả năm, thu từ hải quan đạt 6.263,8 tỷ đồng, vượt 6,2% dự toán và tăng 10,5% so với năm 2017.Thu ngân sách tăng không chỉ đóng góp 17% thu nội địa và 100% thu từ hải quan vào ngân sách trung ương, mà còn giúp cho địa phương cân đối để đảm bảo chi ngân sách địa phương. Tính chung cả năm, tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 18.076,2 tỷ đồng, đạt 92,8% dự toán và tăng 22,4% so với năm 2017. Trong đó, chi cho đầu tư phát triển chiếm 37,3%, vượt tới 92,8% dự toán và tăng 49,5% so với năm 2017 (do thu từ tiền sử dụng đất được sử dụng đầu tư cho các công trình trọng điểm và các dự án BT, BOT); chi thường xuyên đạt 8.341,5 tỷ đồng, chiếm 37%, chỉ vượt 0,3% dự toán và tăng 19,9%.

2.2. Ngân hàng - Tín dụng

Tính bình quân cả năm, lãi suất cho vay ngắn hạn phổ biến đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế ưu tiên ở mức 6-6,5%/năm; lãi suất cho vay các lĩnh vực SXKD thông thường ở mức từ 8-10%/năm đối với ngắn hạn; 10-11%/năm đối với trung và dài hạn.Đến cuối tháng 12, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 102.000 tỷ đồng, tăng 12,7% so với cuối năm 2017. Tổng dư nợ tín dụng đến cuối tháng 12 ước đạt 80.800 tỷ đồng, tăng 16,9% so với cuối năm 2017. Đối với cho vay hỗ trợ nhà ở, đến nay có 509 khách hàng cá nhân được vay với tổng dư nợ 98 tỷ đồng; cho vay hỗ trợ nhà ở theo Nghị định 100/2015/NĐ-CP  có 74 khách hàng với dư nợ 25,6 tỷ đồng; cho vay phát triển nông nghiệp ứng dụng CNC, nông nghiệp sạch có 2 doanh nghiệp với dư nợ 22,7 tỷ đồng; cho vay đối với DN nhỏ và vừa, có 2.400 doanh nghiệp được giải ngân với dư nợ 13.800 tỷ đồng, chiếm 17,1%/tổng dư nợ; Cho vay phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới với dư nợ đạt 21.000 tỷ đồng, chiếm 26%.Về công tác thanh toán, đến nay, trên địa bàn tỉnh đã lắp đặt 296 máy ATM; lắp đặt, vận hành 1.699 máy POS tăng 500 máy so với năm 2017; Các NH trên địa bàn đã phát hành được 784.913 thẻ ATM; thực hiện trả lương cho 2.476 đơn vị, trong đó có 867 đơn vị hưởng lương từ NSNN.

2.3. Bảo hiểm xã hội

Đến cuối năm, toàn tỉnh có 1.194,4 nghìn người tham gia đóng bảo hiểm các loại, chiếm 95,7%/tổng dân số thường trú; so cùng kỳ năm trước tăng 1,7% về tỷ lệ so với dân số và tăng 4,5% về số người tham gia bảo hiểm. Trong đó, có 1.185,6nghìn người tham gia BHYT, chiếm 95% tổng dân số, tăng 4% so với năm 2017; có 349,9 nghìn lao động tham gia đóng BHTN, chiếm 52,2%/tổng số lao động đang làm việc, tăng 15,1 nghìn người so với năm 2017. Tổng số tiền thu bảo hiểm các loại đạt 7.712,3 tỷ đồng, tăng 25,3%. Trong năm, toàn tỉnh đã chi 4.491,8 tỷ đồng tiền bảo hiểm các loại, tăng 4,4% so với năm 2017; trong đó chi từ quỹ BHXH là 3.233,9 tỷ đồng, tăng 11,7%. Số tiền thu từ BHYT đạt 1.638,4 tỷ đồng, tăng 23,4% và đã chi 1.257,9 tỷ đồng để thanh toán cho số người khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế trong cả nước, giảm 5,7% so với năm 2017.

3. Vốn đầu tư và xây dựng

3.1. Hoạt động đầu tư: Tính chung, tổng vốn đầu tư phát triển cả năm 2018 ước đạt 81.131 tỷ đồng, bằng 68,2% so với năm 2017. Trong đó, vốn nhà nước đạt 4.798,5 tỷ đồng, chiếm 5,9% và tăng 18,9% so với năm 2017; vốn của dân cư và khu vực tư nhân đạt 25.188,2 tỷ đồng, chiếm 31,1% và tăng 8,2%; vốn FDI đạt 51.144,3 tỷ đồng, chiếm 63% và bằng 55,8% so với năm 2017.

3.2. Tình hình thu hút và thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài

Tính đến 15/12/2018, cấp mới đăng ký đầu tư 178 dự án, cấp điều chỉnh vốn cho 114 dự án và chấp thuận 47 đăng ký góp vốn mua cổ phần, góp vốn của nhà đầu tư nước ngoài với tổng số vốn đăng ký mới và sau điều chỉnh đạt 1,28 tỷ USD. Lũy kế đến nay, Bắc Ninh cấp đăng ký đầu tư cho 1.303 dự án FDI (còn hiệu lực) với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh là 17,42 tỷ USD. Tính chung cả năm, các dự án FDI đã giải ngân và thực hiện vốn đầu tư đạt 51,9 nghìn tỷ đồng (tương đương 2,2 tỷ USD).

3.3. Xây dựng: GTSX xây dựng cả năm 2018 theo giá so sánh 2010 ước đạt 23.014,7 tỷ đồng, tăng 11,3% so với năm 2017; trong đó công trình nhà ở đạt 9.966 tỷ đồng, tăng 13,9%; công trình nhà không để ở đạt 5.894 tỷ đồng, tăng  14%.

3.4. Xây dựng nông thôn mới: Dự kiến đến hết năm, Bắc Ninh có 89/97 xã (chiếm 91,7%) và 5 đơn vị cấp huyện đạt chuẩn và hoàn thành chương trình xây dựng nông thôn mới tăng 16 xã và 2 huyện so với năm 2017. Số tiêu chí đạt chuẩn bình quân là 18,67 tiêu chí/xã, tăng 0,42 tiêu chí/xã so với cuối năm 2017. Hệ thống nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn được đẩy nhanh tiến độ đầu tư xây dựng phục vụ nhân dân, tỷ lệ số dân nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 98,5%; tỷ lệ người nghèo nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 86,7%; tỷ lệ trường học và trạm y tế có nước và nhà tiêu hợp vệ sinh đạt 100%.

4. Thành lập mới và tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Tính đến ngày 20/12, đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho 2.039 doanh nghiệp với tổng số vốn đăng ký hơn 16,5 nghìn tỷ đồng; tăng 5,7% về số DN và 10,8% về vốn đăng ký so với năm 2017. Lũy kế đến hết 2018, có 11.940 doanh nghiệp đăng ký theo Luật DN với tổng vốn hơn 150 nghìn tỷ đồng. Theo số liệu tổng hợp của ngành Thuế, đến ngày 20/12 trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có 10.258 DN độc lập và 933 chi nhánh DN đang thực hiện nghĩa vụ với NSNN. Trong đó, có 1.038 DN FDI, 9.191 DN ngoài Nhà nước thuộc tỉnh quản lý và 101 chi nhánh DN FDI, 706 chi nhánh DN ngoài nhà nước. Trong 11 tháng, đã có 397 DN phải tạm ngừng KD (trong đó có 11 DN FDI) và 1.081 DN bị đóng cửa mã số thuế (trong đó có 44 DN FDI); so cùng kỳ năm trước, tăng 88 DN tạm ngừng KD và tăng 457 DN đóng cửa mã số thuế; có 345 DN đã quay lại hoạt động và có 447 DN giải thể (lũy kế đến hết tháng 11, đã có 1.611 DN đã giải thể).

5.  Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

5.1. Nông nghiệp

 Về trồng trọt: Kết quả, tổng diện tích gieo trồng năm 2018 đạt 80.453 ha, giảm 3,5% (tương ứng giảm 2.895 ha) so với năm 2017. Trong đó, diện tích lúa là 66.431 ha, giảm 3,8% (-2.658  ha), năng suất đạt 61,8 tạ/ha (+1,7 tạ/ha) và sản lượng đạt 410,6 nghìn tấn (-4,4 nghìn tấn) so với năm 2017. Diện tích ngô đạt 2.056 ha, giảm14,7% (-353 ha); năng suất đạt 50,1 tạ/ha (-1,3 tạ/ha); sản lượng đạt 10,3 nghìn tấn, giảm 2,1 nghìn tấn. Diện tích cây rau, đậu đạt 9.961 ha, tăng 5,3% (+ 476ha). Diện tích hoa, cây cảnh đạt 353,8 ha, tăng 43,2 ha. Cây lâu năm, đến cuối năm 2018 toàn tỉnh có 2.273,5 ha, tăng 82,3 ha so với năm 2017, trong đó có 2.240,5 ha cây ăn quả (+101 ha) và có trên 93% diện tích cây ăn quả đã cho thu hoạch sản phẩm. Tính chung, giá trị sản xuất trồng trọt (theo giá so sánh 2010) ước đạt 3.491,8 tỷ đồng, tăng 0,4%. Theo giá hiện hành, giá trị trồng trọt cả năm ước đạt 4.192,6 tỷ đồng, tăng 3,5%. Giá trị trồng trọt tính trên 1 ha canh tác (giá hiện hành) đạt 93,6 triệu đồng, tăng 3,5% so năm trước.Chăn nuôi: Tại thời điểm 01/12, đàn trâu có 2.673 con, tăng 238 con so cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 29.855 con (-924 con); đàn lợn có 395.280 con (+13.736 con); đàn gia cầm có 5.309 nghìn con (+109 nghìn con). Tổng sản lượng thịt gia súc gia cầm xuất chuồng đạt 94.183 tấn, tăng 3,5% (+3.319 tấn). Giá trị sản xuất chăn nuôi (giá so sánh 2010) cả năm ước đạt 3.734,6 tỷ đồng, tăng 5,4% so với năm 2017.

5.2. Lâm nghiệp: Trong năm, đã trồng được 3,5 ha rừng, chủ yếu ở thành phố Bắc Ninh; chăm sóc 58,4 ha rừng, bằng 89,9% so cùng kỳ; đã tổ chức giao khoán bảo vệ ổn định 455,7 ha rừng hiện có; trồng 230 nghìn cây phân tán, đạt 89% KH năm và bằng 79,9% so cùng kỳ. Khai thác được 4.220 m3 gỗ, giảm 2,9% so cùng kỳ năm trước và 5.650 ste củi, giảm 1,9%. Công tác phòng chống cháy rừng được các ngành chức năng và các địa phương chủ động triển khai và thường xuyên kiểm tra, giám sát, nhưng trong năm vẫn xảy 5 vụ cháy rừng, làm thiệt hại 2,1 ha, giảm 3,5 ha so với năm trước.

5.3. Thuỷ sản: Đến hết năm 2018, toàn tỉnh đã hình thành 165 vùng nuôi cá ao hồ (quy mô >10 ha/vùng), với diện tích hơn 3.200 ha; trong đó có 11 vùng đạt tiêu chuẩn Vietgap. Đến cuối năm, toàn tỉnh có 1.823 lồng nuôi cá với thể tích 209,6 nghìn m3; so với năm 2017, tăng 288 lồng và tăng 23,9 nghìn m3. Sản lượng thuỷ sản thu hoạch cả năm ước đạt 37.209 tấn, tăng 0,5% so với năm 2017; trong đó sản lượng nuôi trồng là 35.987 tấn, tăng 0,6% và chủ yếu do sản lượng nuôi lồng bè tăng cao (đạt 4.718 tấn, tăng 7,1%, tương ứng tăng 313 tấn).

6. Sản xuất công nghiệp

6.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP)

Tính chung tháng 12, IIP chỉ giảm 0,11% so tháng trước và giảm 0,47% so cùng tháng năm trước (tháng 11, giảm 2,67%). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến chế tạo giảm 0,09% so tháng trước và giảm 0,46% so cùng tháng năm trước. Tính chung cả năm 2018, IIP tăng 8,04% so với năm 2017. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 8,04%; ngành SX và PP điện, điều hòa không khí tăng 13,45%; ngành cung cấp nước, xử lý nước rác và thải tăng 1,45%.

6.2. Giá trị sản xuất

Giá trị sản xuất (theo giá so sánh 2010) tháng 12 ước đạt 97.275 tỷ đồng, giảm 3,96% so tháng trước và giảm 9,19% so cùng tháng năm trước. Nguyên nhân giảm là do: Ngành SXSP điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học với tỷ trọng chiếm trên 80%, có giá trị sản xuất giảm 5,58% so tháng trước và giảm 13,08% cùng tháng năm trước. Tính chung cả năm 2018, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 1.136 nghìn tỷ đồng, tăng 11,65% so với năm 2017.

6.3. Sản phẩm công nghiệp

Trong năm, các dòng sản phẩm truyền thống và sản phẩm mới đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng, mẫu mã phù hợp với các nhà sản xuất, lượng xuất khẩu và tiêu dùng ở trong nước gia tăng, nên sản lượng sản phẩm tăng khá so với năm trước, như: dược phẩm có chứa vitamin (gấp 2,3 lần); kính các loại (+44,1%); pin điện thoại (+23,2%); thuốc lá (+20,1%); bình đun nước nóng (+14,3%); giấy và bìa (+14,1%); màn hình điện thoại (+13,9); nước máy thương phẩm (+19,2%); điện thương phẩm (+13,5%),... Tuy nhiên, cũng có không ít sản phẩm có lượng sản xuất giảm do ảnh hưởng của chính sách thuế giữa các nước, khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường nhưng giá rẻ hơn hoặc do sự thay đổi về cơ cấu, mẫu mã sản phẩm của các DN, là: nhóm SP sữa và kem (-2,3%); quần áo (-3,5%); thức ăn gia súc (-8,2%); sắt thép dùng trong XD (-9,8%); giường, bàn, salong gỗ (-16,4%); đồng hồ thông minh (bằng 36,9%).

6.4. Chỉ số sử dụng lao động

Tháng 12, chỉ số sử dụng lao động trong các DN công nghiệp chỉ tăng nhẹ (+0,02%) so với tháng trước và giảm (-7,37%) so cùng tháng năm trước. Tính chung cả năm, chỉ số sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp chỉ tăng 0,43% so với năm 2017.

7. Hoạt động thương mại và các ngành dịch vụ

7.1. Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ

Tính chung cả năm, doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng ước đạt 49.632,2 tỷ đồng, tăng 10,1% so năm trước. Cụ thể ở từng nhóm ngành như sau: Đối với ngành bán lẻ hàng hoá: Doanh thu cả năm ước đạt 37.388,3 tỷ đồng, tăng 10,3% so với năm 2017. Trong đó, kinh tế cá thể  chiếm thị phần lớn trên thị trường bán lẻ với doanh thu cả năm ước đạt 22.963,3 tỷ đồng, chiếm 61,4% và tăng 9,2% so với năm 2017.  Doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống cả năm ước đạt 5.338,1 tỷ đồng, tăng 8,9% so với năm 2017; trong đó doanh thu ăn uống đạt 5.031,4 tỷ đồng, tăng 8,8%. Các ngành dịch vụ tiêu dùng khác, cũng có xu hướng chững lại sau một thời gian tăng cao. Doanh thu cả năm ước đạt 6.891,2 tỷ đồng, tăng 9,8% so năm 2017.

7.2. Hoạt động ngoại thương

Về xuất khẩu, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá cả năm ước đạt 34.914,7 triệu USD, tăng 11,4% so với năm 2017. Về nhập khẩu, tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá cả năm ước đạt 27.686 triệu USD, giảm 11,4% so với năm 2017. Trong đó, khu vực doanh nghiệp FDI đạt 27.281,2 triệu USD và giảm 11,5%.

7.3. Tình hình giá cả

 Chỉ số giá tiêu dùng: Tháng 12, CPI tăng 0,67% so tháng trước, tăng 4,34% so cùng tháng năm trước và tăng 4,34% so tháng 12 năm trước. Nguyên nhân tăng so tháng trước là do có 8/11 nhóm hàng tăng giá với mức tăng từ 0,07%-6%.. Tuy nhiên, cũng có hai nhóm có chỉ số giảm đã góp phần kéo CPI tháng 12 tăng thấp, là nhóm Nhà ở, điện nước, chất đốt và VLXD giảm 0,74 và nhóm giao thông giảm 4,13%. Xét trong 12 tháng, so với tháng trước CPI có xu hướng tăng nhiều hơn (tăng 9/12 tháng, trong đó tháng 9 có mức tăng cao nhất 0,84%), nên tính chung mặt bằng giá năm 2018 cao hơn năm 2017 (thấp hơn trong 4 tháng đầu năm). Bình quân cả năm, CPI tăng 3,38%, cao nhất kể từ năm 2015. Chỉ số vàng và Đôla Mỹ: Tháng 12, giá vàng tiếp tục biến động cùng xu hướng với giá vàng trong nước; bình quân bán ra ở mức 3.500.000đ/chỉ, tăng 0,43% so tháng trước, nhưng vẫn giảm 0,31% so tháng 12/2017. Trong khi đó, giá đôla đã ổn định hơn; bình quân đồng đô-la được bán ra ở mức 23.359đ/USD, giảm nhẹ (-0,04%) so tháng trước, nhưng đã tăng 2,67% so tháng 12/2017. Tính chung cả năm, giá vàng tăng 2,4% so với năm 2017 và giá đôla tăng 1,28%.

8. Hoạt động vận tải, du lịch và bưu chính viễn thông

8.1. Hoạt động vận tải

Vận tải hành khách: Khối lượng vận chuyển cả năm ước đạt 31,3 triệu lượt HK, tăng 8,2% so năm 2017; khối lượng luân chuyển đạt 1.466,6 triệu HK.km, tăng 9,2%. Vận tải hàng hoá, khối lượng vận chuyển cả năm ước đạt 37,8 triệu tấn, tăng 7,1%; khối lượng luân chuyển đạt 1.867,4 triệu tấn.km, tăng 7,1% so với năm 2017. Doanh thu vận tải cả năm ước đạt 7.005 tỷ đồng, tăng 10,4% so với năm 2017. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách đạt 1.791 tỷ đồng, chiếm 25,6% và tăng 12,9%; doanh thu vận tải hàng hoá đạt 2.766,3 tỷ đồng và tăng 7,8%; dịch vụ hỗ trợ vận tải đạt 2.447,7 tỷ đồng, chiếm 33,5% doanh thu ngành vận tải và tăng 11,7%, trong đó doanh thu hoạt động logistic đạt 2.349,8 tỷ đồng và tăng 11,7% so với năm 2017.

8.2. Du lịch: Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã có 22 đơn vị tham gia vận chuyển khách cho hoạt động lữ hành và hơn 300 cơ sở tham gia phục vụ cho hoạt động du lịch; hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật ngành du lịch tiếp tục phát triển mạnh theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, có 604 cơ sở lưu trú với 7.305 phòng (trong đó có 3 khách sạn 5 sao, 01 khách sạn 4 sao). Năm 2018, tổng lượt khách ước 1,35 triệu lượt khách, tăng 20%; tổng ngày khách đạt 1,56 triệu lượt ngày, tăng 21,6%; doanh thu phục vụ (bao gồm cả ăn uống và lưu trú) ước đạt 855 tỷ đồng, tăng 20% so với năm 2017.

8.3. Thông tin và truyền thông: Năm 2018, toàn tỉnh phát triển mới 200 nghìn thuê bao điện thoại di động, tăng 6% so với năm 2017 và có 65,5 nghìn thuê bao rời mạng. Lũy kế đến hết năm 2018, thuê bao điện thoại là 1.500 nghìn thuê bao, tăng 7,5% so cùng thời điểm năm 2017; mật độ đạt 125 thuê bao điện thoại/100 dân. Phát triển thêm được 90 nghìn thuê bao Internet và có 32,5 nghìn thuê bao rời mạng; nâng tổng số thuê bao internet lũy kế là 615 nghìn thuê bao, tăng 17,1%; mật độ đạt 50 thuê bao internet/100 dân.

9. Các lĩnh vực xã hội

9.1. Dân số: Sơ bộ ước tính, dân số trung bình năm 2018 là 1.247,5 nghìn người, tăng 2,65% so với năm 2017; tỷ lệ sinh thô giảm được 0,1‰; tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên là 22,6% và tỷ số giới tính khi sinh là 115,2 bé trai/100 bé gái, thấp hơn mức 116,7 bé trai/100 bé gái của năm 2017. Trong năm 2018, có 151,8 nghìn cặp vợ chồng sử dụng biện pháp tránh thai hiện đại, tăng 2%.

9.2. Đời sống dân cư và thực hiện chương trình giảm nghèo bền vững

Trong năm các doanh nghiệp đã triển khai 25 dự án nhà ở xã hội với gần 27 nghìn căn hộ, đáp ứng nhu cầu cho khoảng 145 nghìn lao động; trong đó có 8 dự án đã hoàn thành với gần 3.000 căn hộ, đáp ứng chỗ ở cho hơn 12 nghìn lao động; ngoài ra còn có 22 dự án nhà ở thu nhập thấp với 14,6 nghìn căn hộ, đáp ứng chỗ ở cho 58,4 nghìn người. Tính chung cả năm, thu nhập bình quân của người lao động trong khu vực DN đạt 7,6 triệu đồng/tháng, tăng hơn 10% so với năm 2017 (trong đó, khối DN FDI đạt 8,8 triệu đồng, tăng hơn 13%). Đối với khối HCSN và người nghỉ hưu, từ tháng 7, đã điều chỉnh tăng mức lương tối thiểu thêm 6,9%. Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững tiếp tục được thực hiện có hiệu quả bằng nhiều hình thức và huy động từ nhiều nguồn vốn nhằm hỗ trợ phát triển kinh tế, cải thiện điều kiện sống cho hộ nghèo, hộ cận nghèo. Theo kết quả rà soát, toàn tỉnh hiện còn 5.593 hộ nghèo, chiếm 1,62% tổng số hộ toàn tỉnh; so với cuối năm 2017, đã giảm 1.150 hộ; số hộ cận nghèo còn 7.470 hộ, chiếm 2,17%, giảm 668 hộ. Công tác chăm sóc người có công, bảo trợ, an sinh và phúc lợi xã hội: Trong các dịp Lễ, Tết, ngày kỷ niệm trọng đại, cấp ủy, chính quyền các địa phương và cộng đồng DN đã tổ chức nhiều đoàn đi thăm, tặng quà các đối tượng chính sách, người có công, người cao tuổi ở 8 huyện, thị xã, thành phố và các đơn vị có đối tượng đang nuôi dưỡng, chăm sóc người có công, đối tượng bảo trợ xã hội và người già không nơi nương tựa; tiếp tục hỗ trợ xây dựng nhà ở cho các gia đình chính sách; vận động đóng góp Quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, tặng sổ tiết kiệm “Tình nghĩa”; khám chữa bệnh miễn phí cho các đối tượng và thân nhân gia đình chính sách

9.3. Lao động và việc làm

Tính chung cả năm, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 27.000 lao động, trong đó khu vực CN-XD là 17.500 gười; khu vực dịch vụ là 8.200 người và xuất khẩu gần 1.300 lao động; phê duyệt 1.133 dự án cho vay giải quyết việc làm với số tiền 57,4 tỷ đồng với 1.247 người được thụ hưởng. Đến cuối năm, toàn tỉnh có 670,5 nghìn lao động đang làm việc trong các ngành kinh tế, tăng 2% so với năm 2017; trong đó khu vực CN-XD có 342,8 nghìn lao động, tăng 3,7%; khu vực dịch vụ có 213,7 nghìn lao động, tăng 3,6%; khu vực NLTS có 114 nghìn người, giảm 5,2% so năm 2017.

9.3. Giáo dục - Đào tạo

Giáo dục: Kết thúc năm học 2017-2018, ngành Giáo dục đạt được nhiều kết quả nổi bật. Kết quả thi chọn học sinh giỏi quốc gia THPT năm 2018 đoạt 52 giải (đạt 81,2%), 02 học sinh trường THPT Chuyên Bắc Ninh đạt giải Nhất thi KHKT cấp quốc gia được lựa chọn dự thi Intel - ISEF 2018 quốc tế tại Hoa Kỳ. Tổ chức kỳ thi THPT quốc gia năm 2018 tỷ lệ học sinh đỗ tốt nghiệp đạt 99,15%; trong đó có 01 học sinh đạt điểm cao nhất cả nước khối A. Đội ngũ giáo viên có trình độ đạt chuẩn đạt 100% và trên chuẩn cao 85,3%. Tỷ lệ phòng học kiên cố cao tầng đạt 98,5%; tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia đạt 94,6% (trong đó khối tiểu học và THPT công lập đạt 100%).Năm học 2018-2019, phấn đấu xóa phòng học cấp 4 trên địa bàn toàn tỉnh và đầu tư để phát triển trường, lớp ở các KCN tập trung. Khai giảng năm học mới, toàn tỉnh có 487 trường mầm non và phổ thông các cấp, với 8.859 phòng học và có 11.266 lớp học, 333.363 học sinh và 17.330 giáo viên; so với năm học trước, giảm 6 trường (do một số huyện đã sáp nhập các trường mầm non, tiểu học có quy mô nhỏ trong cùng một xã), tăng 476 phòng học, tăng 1.213 lớp học, tăng 28.146 học sinh và tăng 1.854 giáo viên.Đào tạo: Công tác đào tạo nghề từng bước được nâng cao về chất lượng, nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp đã được các DN tuyển dụng với mức thu nhập khá. Năm học 2018-2019, các trường TCCN và dạy nghề dự kiến tuyển sinh 22.860 học sinh (không tính học viên trong các lớp ngắn hạn từ 3 tháng trở xuống), tăng 11,8% so với năm học trước, với 2.066 giảng viên, tăng 4%.

9.4. Y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng

 Đến cuối năm toàn tỉnh đã có 3.815 giường bệnh (không kể trạm y tế cấp xã), đạt 30,6 giường bệnh/1 vạn dân; bình quân đạt 10 bác sỹ/1 vạn dân. Trong năm, các cơ sở y tế tuyến tỉnh và huyện đã khám chữa bệnh cho 1.952,8 nghìn lượt người, tăng 6,5% so năm trước, trong đó điều trị nội trú cho 232,6 nghìn lượt người, tăng 13,2%, Công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, bà mẹ và trẻ em được quan tâm và đạt kết quả khá. Tỷ lệ phụ nữ có thai tiêm uốn ván +2 đạt trên 95%; Tỷ lệ tiêm chủng mở rộng đầy đủ cho trẻ dưới 1 tuổi đạt trên 98%; tỷ lệ suy dinh dưỡng cân nặng theo độ tuổi trẻ em dưới 5 tuổi còn 9,8%.

9.5. Văn hoá, thông tin và thể dục thể thao

Công tác thông tin và các hoạt động văn hóa, văn nghệ trong năm tập trung tuyên truyền phục vụ tốt các nhiệm vụ chính trị trọng tâm, phục vụ Tết Nguyên đán Mậu Tuất và các ngày lễ, kỷ niệm lớn của đất nước và của địa phương. Thư viện và Bảo tàng tỉnh tổ chức hơn 10 đợt trưng bày về các ngày lễ và sự kiện lịch sử trọng đại của tỉnh và cả nước. Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao quần chúng cũng được tổ chức sôi động, như: tổ chức Hội thi “Hát Dân ca quan họ”; trưng bày “Các cổ vật tiêu biểu”; Hội chợ triển lãm đá cảnh, sinh vật cảnh; Lễ hội Kinh Dương Vương, Khán hoa mẫu đơn tại chùa Phật Tích; diễu hành mô tô, xe đạp thể thao; giải bóng chuyền, Cầu lông, Quần vợt; Vật cổ điển, kéo co,...trong các lễ hội. Từ tháng 4, Đài PTTH tỉnh đã bố trí, sắp xếp lại khung chương trình phát thanh, truyền hình, mở thêm nhiều chương trình, chuyên mục mới, nâng thời lượng chương trình phát thanh từ 4,5 giờ lên 16,5 giờ/ngày. Tính chung cả năm, đã thực hiện 6.881 chương trình phát thanh, gấp 2,1 lần năm 2017, với 4.942 giờ, gấp gần 3 lần; xây dựng, sản xuất 4.076 chương trình truyền hình, tăng 1,5%, với 8.760 giờ.

Ở cấp tỉnh, tổ chức thành công nhiều giải thể thao trong nước và quốc tế. Đến nay các vận động viên đã giành 223 huy chương các loại, tăng 36,8% so với năm 2017 (trong đó có 35 huy chương quốc tế). Đặc biệt, tại giải cử tạ thanh thiếu niên vô địch châu Á 2018 tại Uzbekistan, VĐV Đỗ Tú Tùng của tỉnh Bắc Ninh đã dành 3 tấm HCV, đồng thời phá kỷ lục U17 thế giới ở nội dung cử đẩy với mức tạ 128 kg (kỷ lục cũ là 127 kg). Đội nữ bóng chuyền Kinh Bắc đạt vô địch giải hạng A quốc gia, được thăng hạng lên thi đấu giải vô địch quốc gia.

9.6. An ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội

An ninh chính trị và TTATXH: Nhìn chung an ninh chính trị, trật tự ATXH trên địa bàn tỉnh trong cả năm cơ bản được giữ vững, tạo tiền đề tốt để ổn định và phát triển KT- XH. Tính từ ngày 16/12/2017 đến 15/12/2018, toàn tỉnh xảy ra 570vụ phạm pháp hình sự, giảm 156 vụ so năm 2017. Tuy nhiên tội phạm liên quan đến ma túy có xu hướng gia tăng. Trong năm đã phát hiện và bắt giữ 1.311 vụ buôn bán ma túy với 1.722 đối tượng, thu 25.253 gam heroin, ma túy các loại và 3.040 viên ma tuý tổng hợp; so cùng kỳ năm trước, tăng 70 vụ, tăng 49 đối tượng, nhưng giảm 2.245 gam ma tuý.An toàn giao thông: Công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát giữ gìn trật tự an toàn giao thông tiếp tục được tập trung chỉ đạo thực hiện. Trong năm, trên các tuyến đường bộ đã xảy ra 89 vụ TNGT, làm chết 68 người, bị thương 34 người; so năm 2017, giảm 2 vụ, giảm 6 người chết và giảm 2 người bị thương.

9.7. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường: Trong năm, toàn tỉnh đã xảy ra 28 vụ cháy nổ, làm 4 người chết và 10 người bị thương, gây thiệt hại về kinh tế 52,92 tỷ đồng; so cùng kỳ năm trước, tăng 3 vụ, tăng 2 người chết, giảm 3 người bị thương và tăng 29,7 tỷ đồng về giá trị thiệt hại. Trong đó, đáng chú ý nhất là vụ nổ kho phế liệu đầu đạn tại thôn Quan Độ, xã Văn Môn, huyện Yên Phong đã làm 2 người chết và 8 người bị thương, làm 7 căn nhà bị hư hỏng hoàn toàn và gần 100 căn nhà dân tại khu vực lân cận bị vỡ kính, nứt tường, sập mái. Tính từ ngày 16/12/2017 đến 15/12/2018, các lực lượng chức năng đã phát hiện và xử lý 444 vụ vi phạm pháp luật về môi trường; qua điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính 369 vụ, phạt 108 tổ chức và 285 cá nhân vi phạm; thu nộp Kho bạc Nhà nước 5,5 tỷ đồng; kiến nghị khắc phục ô nhiễm môi trường đối với 16 tổ chức, cá nhân.

Biểu KTXH tháng 12 năm 2018.