Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh tháng 3 và quý I năm 2019
Theo báo cáo của Cục thống kê, tình hình Kinh tế xã hội tỉnh tháng 3 và quý I năm 2019 như sau:
1. Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) quý I theo giá so sánh 2010 ước đạt 37.131,3 tỷ đồng, giảm 5,6% so với quý I/2018, đây là mức giảm cao nhất kể từ năm 2015 đến nay. Trong đó, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,3% và đóng góp 0,03 điểm phần trăm tăng trưởng, chủ yếu do tăng ở nhóm cây thực phẩm. Khu vực công nghiệp - xây dựng giảm 8,8% và làm giảm 6,95 điểm phần trăm tăng trưởng. Trong đó, ngành công nghiệp giảm 9,4%, còn ngành xây dựng tăng 3,9%. Trong khi ngành xây dựng, tuy tăng 3,9% so cùng kỳ năm trước, nhưng do tỷ trọng nhỏ nên chỉ bù đắp được một phần mức giảm của ngành công nghiệp. Ở khu vực dịch vụ, mức tăng trưởng quý I năm nay cũng đạt thấp (+7%) và đóng góp 1,33 điểm phần trăm tăng trưởng. Một số ngành vẫn duy trì được mức tăng trưởng khá, như: bán buôn, bán lẻ (+9,6%), vận tải kho bãi (+9,9%), thông tin và truyền thông (8,2%), tài chính tín dụng (8,9%), hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ (+10,3%),… và thuế sản phẩm tăng 10,3% , đã góp phần bù đắp mức tăng thấp của một số ngành.
2. Tài chính, ngân hàng và bảo hiểm
2.1. Tài chính
Tính chung quý I, tổng thu ngân sách Nhà nước trên địa bàn ước đạt 9.637,4 tỷ đồng, đạt 35,2% dự toán năm và tăng 7,3% so với quý I/2018. Trong đó, thu nội địa là 8.032,8 tỷ đồng, chiếm 83,4%, đạt 38% dự toán và tăng 6,2%; thu từ hải quan là 1.604,6 tỷ đồng, đạt 25,7% dự toán và tăng 13,4%. Một số khoản thu nội địa duy trì mức tăng khá so với quý I/2018, như: thu từ DN FDI đạt 3.744 tỷ đồng, tăng 7%; thuế thu nhập cá nhân đạt 1.538,3 tỷ đồng, tăng 10,9%; thu thuế ngoài nhà nước đạt 849,6 tỷ đồng, tăng 19,2%; thu phí và lệ phí các loại đạt 182,9 tỷ đồng, tăng 9,6%. Bên cạnh đó, cũng có một số khoản thu thấp và giảm so cùng kỳ là thu tiền sử dụng đất đạt 1.009 tỷ đồng, giảm 8,4%; thu từ DNNN trung ương đạt 336 tỷ đồng, giảm 4,4%; thu thuế bảo vệ môi trường đạt 201 tỷ đồng, giảm nhẹ (-0,2%).
Quý I, tổng chi ngân sách địa phương ước đạt 4.905,5 tỷ đồng, đạt 27,7% dự toán năm và tăng 50,2% so với quý I/2018. Trong đó, chi cho đầu tư phát triển là 3.205,5 tỷ đồng, đạt 57,1% dự toán và tăng 59,7%; chi thường xuyên là 1.700 tỷ đồng, đạt 18,2% dự toán và tăng 34,9%. Sở dĩ, chi ngân sách quý I tăng cao là do tỉnh đã tập trung và ưu tiên cho đầu tư phát triển với nhiều dự án trọng điểm trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng, giao thông, xây dựng nông thôn mới theo mục tiêu xây dựng tỉnh Bắc Ninh trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Đối với chi thường xuyên, ngân sách địa phương cũng ưu tiên cho các ngành và lĩnh vực then chốt, như: chi giáo dục - đào tạo, chi sự nghiệp y tế 125 tỷ đồng, QLNN và đảm bảo ANQP, bảo đảm xã hội, bảo vệ môi trường,..
2.2. Ngân hàng - Tín dụng
Tổng nguồn vốn huy động tín dụng đến cuối tháng 3 ước đạt 105 nghìn tỷ đồng, tăng 4,5% so tháng trước, tăng 16,1% so cùng tháng năm trước và tăng 5,9% so với cuối năm 2018. Trong đó, tiền gửi tiết kiệm của dân cư là 63,1 nghìn tỷ đồng, tăng 2,5%, tăng 15,1% và tăng 7%; tiển gửi của các tổ chức đạt 38,3 nghìn tỷ đồng, tăng 5,5%, tăng 16,1% và tăng 1,9%. Trong quý I, thực hiện chỉ đạo của NHNN, các ngân hàng và tổ chức tín dụng đã áp dụng lãi suất và mức phí cho vay hợp lý đối với từng loại hình DN. Đối với lãi suất cho vay bằng VND phổ biến ở mức: các lĩnh vực, ngành kinh tế ưu tiên từ 6-6,5%/năm; các lĩnh vực SXKD thông thường khác, mức lãi suất giảm 0,5% so với quý I/2018: kỳ ngắn hạn từ 8-9,5%/năm, trung và dài hạn từ 10-11%/năm.
Nhu cầu chi tiêu tiền mặt của dân cư và các tổ chức tăng cao, công tác thanh toán được các ngân hàng thực hiện nhanh chóng, kịp thời, chính xác và an toàn tuyệt đối, nên lượng thu-chi tiền mặt qua ngân hàng tăng khá. Tính chung, tổng thu tiền mặt trong quý I ước đạt 120,1 nghìn tỷ đồng và chi tiền mặt đạt 119,7 nghìn tỷ đồng, bội thu tiền mặt ước đạt 400 tỷ đồng, cao hơn mức 300 tỷ đồng của quý I/2018.
2.3. Bảo hiểm
Với mục tiêu nâng cao tỷ lệ bao phủ bảo hiểm xã hội và y tế cho người dân và lực lượng lao động, ngay từ đầu năm ngành BHXH tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp để mở rộng đối tượng tham gia theo Luật Bảo hiểm mới, trong đó chú trọng vào nhóm BHYT theo gia đình, cho lực lượng lao động có hợp đồng ngắn hạn trong các KCN tập trung. Đến cuối tháng 3, toàn tỉnh đã có 1.221,3 nghìn người tham gia đóng bảo hiểm các loại, chiếm 96,7% dân số toàn tỉnh; so cùng kỳ năm trước, tăng 7,4% về số người tham gia và tăng 3,7% tỷ trọng so với dân số. Trong tổng số, có 1.217,7 nghìn người tham gia BHYT, chiếm 96,5% dân số, tăng 7,5%; 365,5 nghìn người tham gia BHXH, tăng 13,6%; 340,6 nghìn người đóng BHTN, tăng 6%. Tổng số tiền thu bảo hiểm các loại đạt 1.699 tỷ đồng, tăng 17,3% so cùng kỳ; trong đó thu từ BHYT là 320 tỷ đồng, chỉ tăng 0,4%; thu BHXH bắt buộc là 1.275,4 tỷ đồng, tăng 21,2%.
3. Đầu tư và hoạt động của doanh nghiệp
3.1. Vốn đầu tư phát triển: Tính chung, tổng vốn đầu tư phát triển quý I ước đạt 15.424,4 tỷ đồng, tăng 1,8% so với quý I/2018. Trong đó, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước đạt 978,8 tỷ đồng, tăng 32,3%; vốn ngoài Nhà nước đạt 5.527,8 tỷ đồng, tăng 1,5%; vốn đầu tư của DN FDI đạt 8.696,7 tỷ đồng, giảm 2,1%. Dự báo, từ quý II vốn đầu tư sẽ gia tăng hơn do có thêm một số DN FDI mới được cấp phép từ tháng 1 sẽ triển khai xây lắp nhà máy và dây truyền sản xuất với tổng vốn đầu tư dự kiến khoảng hơn 200 triệu USD (tương đương gần 4.700 tỷ đồng). Riêng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước, trong quý I đã chi 946,1 tỷ đồng cho hoạt động xây dựng cơ bản, chiếm 96,7%/tổng vốn đầu tư phát triển, tăng 35,3% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đầu tư từ ngân sách cấp tỉnh là 677,1 tỷ đồng, tăng 37,3%; ngân sách cấp huyện 158,8 tỷ đồng, tăng 28,7% và ngân sách cấp xã là 110,3 tỷ đồng, tăng 33,4%.
3.2. Tình hình đăng ký doanh nghiệp: Tính từ ngày 01/01 đến ngày 15/3, Sở KH-ĐT đã cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới cho 373 doanh nghiệp, với tổng vốn đăng ký hơn 6.400 tỷ đồng; so cùng kỳ năm 2018, tăng 18% về DN thành lập mới và gấp 2,4 lần về vốn đăng ký. Lũy kế đến ngày 15/3, trên địa bàn tỉnh có 14.457 DN được thành lập theo Luật DN với tổng vốn đăng ký là 211,3 nghìn tỷ đồng; trong đó có 2.084 DN đang bị khóa do vi phạm trong quá trình hoạt động. Qua gần 3 tháng, toàn tỉnh đã có 116 DN (14 chi nhánh) đã đóng mã số thuế, gấp 2,2 lần so cùng kỳ năm trước và có 225 DN (12 chi nhánh) tạm ngừng SXKD, gấp 1,7 so cùng kỳ năm trước; có 50 doanh nghiệp giải thể và 28 đơn vị trực thuộc chấm dứt hoạt động, nâng tổng số 1.715 DN giải thể và 310 đơn vị trực thuộc chấm dứt hoạt động.
3.2. Tình hình cấp phép vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tính đến này 15/3, toàn tỉnh đã cấp mới giấy chứng nhận đầu tư cho 36 dự án với tổng vốn đầu tư 459,2 triệu USD; so cùng kỳ năm trước, tăng 16,1% về dự án và tăng 59,8% về vốn đăng ký. Đồng thời, cấp điều chỉnh cho 20 dự án với tổng vốn điều chỉnh tăng thêm 103,6 triệu USD. Luỹ kế đến nay, trên địa bàn tỉnh có 1.334 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài được cấp phép đầu tư (còn hiệu lực), tổng vốn đầu tư sau điều chỉnh là 17.600 triệu USD. Trong đó, trong các KCN tập trung có 896 dự án (chiếm 68,6%) với tổng vốn đầu tư đăng ký là 16.346 triệu USD và Hàn Quốc là quốc gia đứng đầu về số dự án và vốn đầu tư vào tỉnh Bắc Ninh, với 981 dự án và 14.107 triệu USD vốn đầu tư. Trong tổng số dự án còn hiệu lực, đã có 1.074 dự án đang hoạt động và thực hiện đầu tư, chiếm 80,5%, với tổng vốn đầu tư thực hiện đạt 85% so với vốn đăng ký.
3.3. Xu hướng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: Từ những đánh giá, phân tích thực trạng sản xuất công nghiệp và tình hình đầu tư của doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh. Dự báo xu hướng sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh trong quý II/2019 có nhiều khả quan hơn. Theo đánh giá, có 46,52% doanh nghiệp đánh giá sản xuất kinh doanh (SXKD) trong quý II/2019 sẽ tốt hơn và 37,97% cho rằng giữ ổn định so với quý I/2019 và có 15,51% đánh giá là khó khăn hơn. Trong đó, ở khối doanh nghiệp ngoài Nhà nước có 58,51% doanh nghiệp khẳng định tăng lên, có 25,53% doanh nghiệp cho rằng giữ nguyên và 15,96% doanh nghiệp đánh giá sẽ khó khăn hơn. Ở khối DN FDI có tỷ lệ tương ứng là 35,29%; 50,59% và 14,12%.
4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
4.1. Nông nghiệp
a) Về trồng trọt: Sản xuất vụ đông năm nay đạt kết quả cao hơn so với vụ đông năm trước. Theo số liệu tổng hợp sơ bộ, tổng diện tích gieo trồng cây hàng năm vụ đông năm 2018-2019 đạt 6.886 ha, đạt 97% KH vụ và tăng 1% (+66,5 ha) so với vụ đông năm trước, các địa phương có diện tích cây rau màu gieo trồng tăng là: huyện Tiên Du tăng 112 ha, Gia Bình tăng 48,4 ha, Lương Tài tăng 44,8 ha... Trong đó, cây ngô tiếp tục giảm sâu do một số địa phương đã chuyển đất bãi sang trồng các cây ăn quả, diện tích gieo trồng đạt 539,4 ha, giảm 299,1 ha so cùng vụ năm trước, sản lượng ngô đạt 2.830,6 tấn, giảm 1.302,4 tấn; nhóm cây có hạt chứa dầu cũng giảm cả về diện tích và sản lượng, nhưng với quy mô nhỏ, nên tác động không lớn đến kết quả chung.
Sản xuất vụ xuân: Đến nay, 100% diện tích lúa xuân đã được chăm sóc đợt 1, lúa đang hồi xanh, sinh trưởng và phát triển tốt. Các địa phương có tỷ lệ chăm sóc lúa đợt 1 đạt 100% là huyện Gia Bình, Tiên Du và thị xã Từ Sơn. Cùng với gieo cấy lúa xuân, nông dân trong tỉnh cũng tổ chức gieo trồng một số cây rau màu vụ xuân với 3.152,5 ha, đạt 70,5% so KH vụ và bằng 88,8% so cùng vụ năm trước.Trong đó, cây ngô là 687 ha, đạt 72,3% KH và bằng 77,9%; cây lạc 330,5 ha, đạt 84% KH và bằng 94,7%; đậu tương 34,5 ha, đạt 69% và tăng 9,5%; cây khoai tây 276 ha, vượt 31,4% KH và bằng 74,7%; cây rau các loại 1.824,5 ha, đạt 65,8% KH và bằng 95,1% so cùng kỳ.
b) Chăn nuôi và công tác thú y
Tình hình dịch bệnh và công tác phòng chống dịch bệnh ở đàn gia súc gia cầm: Từ đầu năm đến nay, dịch LMLM đã xảy ra tại 352 hộ ở 107 thôn, khu phố thuộc 55 xã, phường, thị trấn của 7/8 huyện, thị xã, thành phố, làm 4.649 con lợn mắc bệnh buộc phải tiêu hủy với tổng trọng lượng gần 293 tấn. Ngày 16/1/2019, dịch cúm gia cầm đã xảy ra tại 01 hộ thuộc thôn Xuân Hội, xã Lạc Vệ, huyện Tiên Du làm 1.377 con vịt mắc bệnh buộc phải tiêu hủy với tổng trọng lượng là 2.754 kg. Từ ngày 13/3, bệnh dịch tả lợn châu Phi đã phát sinh trên địa bàn tỉnh và đến ngày 21/3 đã xảy ra tại 51 hộ dân thuộc 23 xã, phường với tổng số 866 con lợn mắc bệnh phải tiêu hủy với tổng trọng lượng là 60,9 tấn. Các ngành chức năng và các địa phương đã tổ chức tiêu hủy số lợn bị mắc bệnh và thực hiện các biện pháp khoanh vùng, khử trùng tiêu độc chuồng trại chăn nuôi, khu vực xung quanh hộ có dịch và các thôn tại các xã có dịch. Để chủ động phòng chống các dịch bệnh, đặc biệt là dịch tả lợn châu Phi, ngày 13/3/2019 Tỉnh Ủy Bắc Ninh đã có Công văn số 1010-CV/TU về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác phòng, chống dịch tả lợn châu Phi, coi đây là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của cấp ủy, các ngành và địa phương; UBND tỉnh đã ban hành Kế hoạch hành động ứng phó khẩn cấp và thành lập Ban chỉ đạo phòng chống dịch bệnh động vật. Hiện nay, các ngành chức năng và các địa phương tiếp tục tăng cường giám sát chặt chẽ tình hình dịch bệnh, đặc biệt lưu ý những nơi có ổ dịch mới và cũ, nơi có nguy cơ lây nhiễm cao. Đồng thời, tổ chức tiêm phòng bổ sung các loại vắc xin cho đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh. Tính chung, quý I toàn tỉnh tiêm được 1,41 triệu liều vắc-xin các loại cho đàn lợn; 2,77 triệu liều vắc-xin các loại cho đàn gia cầm; sử dụng 19,6 nghìn lít hóa chất và 1.000 tấn vôi bột để khử trùng, tiêu độc môi trường.
4.2. Lâm nghiệp: Dự tính đến hết quý I, toàn tỉnh trồng được 68,4 nghìn cây phân tán, đạt 42,2% KH năm (riêng trong ngày 11/2/2019 - Tết trồng cây, toàn tỉnh đã trồng được 9.000 cây phân tán), đã góp phần tạo động lực cho phong trào trồng cây, gây rừng phát triển sâu rộng trong cộng đồng dân cư. Với mục tiêu năm 2019 là trồng mới 8,5 ha rừng tập trung, chăm sóc 78 ha rừng trồng, bảo vệ 416,3 ha rừng và trồng 162 nghìn cây cây phân tán, các đơn vị đã chuẩn bị đủ lượng cây giống đáp ứng đủ kế hoạch đã đề ra. Cũng trong quý I năm 2019, toàn tỉnh khai thác được 713 m2 gỗ, giảm 2,3% so với cùng kỳ, sản lượng củi khai thác 1.012 ste giảm 1,7%.
4.3. Thuỷ sản: Ước tính đến cuối quý I, diện tích nuôi trồng thủy sản còn 5.205,8 ha, giảm 16,2 ha so cùng kỳ năm trước. Trong đó, diện tích nuôi cá 5.024 ha, chiếm 96,5%. Số cơ sở nuôi lồng bè trên sông tiếp tục tăng, đến cuối tháng 3 có 1.763 lồng, tăng 8,3% so cùng thời điểm năm 2018. Tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác quý I ước đạt 9.496 tấn, tăng 1% (+51 tấn) so với cùng kỳ. Trong đó, sản lượng nuôi trồng là 9.223 tấn, tăng 1,2% so với cùng kỳ; sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 273 tấn, giảm 5,5% (-8 tấn) so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tăng chủ yếu ở phần nuôi lồng bè với 1.237 tấn, tăng 8,5%.
5. Sản xuất công nghiệp
5.1. Tình hình sản xuất công nghiệp
Tháng 3, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tuy tăng cao (+31,3%) so tháng trước, nhưng vẫn giảm 17,8% so cùng tháng năm trước. Nguyên nhân là do tháng 2 trùng với Tết Nguyên đán và có các lễ hội đầu xuân, còn tháng 3 năm trước sản xuất của các DN FDI đạt đỉnh và tăng rất cao. Trong ngành CN chế biến chế tạo, so tháng trước chỉ có một ngành có chỉ số giảm là sản xuất phương tiện vận tải khác (-3,6%); trong khi 19 ngành còn lại đều đạt mức tăng hai con số, với mức thấp nhất là ngành sản xuất giường, tủ, bàn ghế (+13,4%) và cao nhất là ngành sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu (+64,1%).
Về chỉ số tiêu thụ, tồn kho: Tính chung quý I, do chỉ số tiêu thụ đạt thấp (+1,8%), nên chỉ số tồn kho tăng khá cao (+22%) so cùng kỳ năm trước. Trong đó, một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm hoặc tăng thấp và chỉ số tồn kho tăng cao so cùng kỳ là ngành SXSP điện tử có chỉ số tương ứng là -12,2% và +69,7%; chế biến gỗ và SXSP từ gỗ, tre, nứa là -31,3% và gấp 2,1 lần; SX xe có động cơ là -5,3% và +83,1%; SXSP từ khoáng phi kim loại là +2,7% và +61,3%.
5.2. Sản phẩm công nghiệp: Cùng xu hướng với chỉ số sản xuất công nghiệp, các sản phẩm có lượng xuất khẩu lớn và nhu cầu tiêu dùng trong nước gia tăng, đều có lượng sản xuất tăng khá so với quý I/2018, như: thuốc lá (+9,2%), thức ăn gia súc, nuôi trồng thủy sản (+9,2%), giấy và bìa (+3,9%), ruột phích và bình (+5,3%), điện thoại thông minh (+18%), đồng hồ thông minh (gấp 5,6 lần); pin điện thoại (+2,2%); tủ gỗ (+3,2%); salong gỗ (+14,9%),… Tuy nhiên, các sản phẩm chưa đáp ứng được thị hiếu người tiêu dùng và sự cạnh tranh giữa các sản phẩm cùng loại nhưng có giá rẻ hơn đều có lượng sản xuất giảm là mỳ, phở, bún, cháo ăn liền (- 3,6%); vải tuyn (-21,5%); dược phẩm có vitamin (-5%); bê tông tươi (-29,9%); sắt thép dùng trong xây dựng (-29,3%); điện thoại thông minh (-18,4%); màn hình OLED (-18,5%); bình đun nước nóng (-10%); bàn gỗ (-31,5%),…
5.3. Về tình hình sử dụng lao động của doanh nghiệp công nghiệp: Mặc dù, sản xuất công nghiệp tháng 3 tăng cao so tháng trước, nhưng chỉ số sử dụng lao động lại giảm 0,2% so với tháng trước và giảm tới 10,4% so cùng tháng năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, có chỉ số sử dụng giảm 0,23% so với tháng trước và giảm 10,72% so cùng tháng năm trước; ngành SX và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí, có chỉ số ổn định so với tháng trước và tăng 15,02%; còn ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 0,72% và tăng 8,92%. Xét theo loại hình sở hữu, khối các DNNN, có chỉ số sử dụng lao động tăng 0,62% so với tháng trước và tăng 2,08% so cùng tháng năm trước; khối DN ngoài Nhà nước tăng 0,72% và tăng 8,92%. Trong khi, khối DN FDI giảm 0,44% và giảm 12,64%, chủ yếu do giảm ở ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học (-1,26% và -18,47%).
6. Thương mại, dịch vụ và giá cả
6.1. Lưu chuyển hàng hóa và dịch vụ
Trong quý I, do giá cả ổn định, lạm phát ở mức thấp, lượng hàng hóa phong phú, đa dạng; mức lương, thưởng Tết và thu nhập tăng thêm của người lao động tăng khá, nên sức mua hàng hóa và dịch vụ duy trì tăng trưởng ở mức hai con số. Tính chung, doanh thu bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng quý I ước đạt 13.775 tỷ đồng, tăng 10,9% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 10.783 tỷ đồng, chiếm 78,3% và tăng 13,6%. Một số nhóm hàng có mức tăng cao hơn chỉ số chung là lương thực, thực phẩm (+15,3%); đồ dùng, trang thiết bị gia đình (+15,2%); ô tô các loại (+18,7%); đá quý và kim loại quý (+14,6%).
6.2. Tình hình giá cả
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI): Xét tổng quan trong quý I, CPI của Bắc Ninh ít biến động và có tốc độ tăng khá thấp, sau 3 tháng CPI chỉ tăng 0,01% và mặt bằng giá chỉ xoay quanh mức so với cuối năm 2018. Đây là tín hiệu tốt cho các doanh nghiệp do chính sách tiền tệ sẽ được nới lỏng hơn và cơ hội tiếp cận vay vốn cũng dễ hơn. Tính chung quý I, có 10/11 nhóm hàng tăng so với quý trước là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống (+0,25%); Đồ uống và thuốc lá (+4,79%); May mặc mũ nón và giầy dép (+1,23%); Nhà ở, điện, nước, chất đốt và VLXD (+2,92%); Thiết bị và đồ dùng gia đình (+1,88%); Thuốc và dịch vụ y tế (+3,96%); Bưu chính viễn thông (+0,11%); Giáo dục (+0,13%); Văn hóa, giải trí và du lịch (+0,32%) và hàng hoám dịch vụ khác (+3,25%). Riêng nhóm Giao thông giảm 7,19%. So với cùng kỳ, CPI cũng tăng ở 9/11 nhóm hàng và có hai nhóm giảm là Thuốc và dịch vụ y tế (-2,14%) và Giao thông (-5,73%).
Chỉ số giá vàng và USD: Nhìn chung, giá vàng và USD vẫn phụ thuộc vào thị trường trường thế giới và sự điều chỉnh lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ. Tính chung, bình quân giá vàng bán ra trong tháng 3 ở mức 3.664 nghìn đồng/chỉ, giảm 0,35% so tháng trước và tăng 0,2% so cùng tháng năm trước, nhưng sau 3 tháng đã tăng 4,69%. Trong khi đó, giá đô la Mỹ bán ra bình quân ở mức 23.253 đ/USD, tăng nhẹ (+0,04%) so tháng trước, tăng 2,04% so cùng tháng năm trước và giảm 0,46% so với tháng 12/2018. So với quý trước và cùng kỳ năm trước, giá vàng tăng tương ứng +4,94% và +0,17% ; trong khi đồng đôla Mỹ lại biến động trái chiều, -0,51% và +2,17%.
6.3. Hoạt động ngoại thương
Về xuất khẩu: Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa trong quý I ước đạt 7.014,6 triệu USD, giảm 16,6% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực FDI đạt 6.997 triệu USD, giảm 16,6%, do nhóm hàng điện thoại và màn hình giảm sâu (25%). Bên cạnh đó, các mặt hàng truyền thống khác cũng chưa ký kết được hợp đồng mới, nên kim ngạch xuất khẩu cũng đạt thấp và giảm, như: hàng dệt may đạt 21,4 triệu USD và giảm 60,8%; chất dẻo nguyên liệu đạt 3,5 triệu USD và giảm 34%; máy tính và phụ kiện đạt 1.193,5 triệu USD và giảm 1,5%; riêng nhóm gỗ và sản phẩm từ gỗ mới xuất khẩu được 63 nghìn USD, bẳng 5,1% so cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, từ xu hướng xuất khẩu của tháng 3 (+36,6% so tháng trước) cho thấy sang quý II kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng cao hơn do dòng điện thoại Samsung Galaxy S10 sẽ được bán rộng rãi trên thị trường thế giới.
Về nhập khẩu: Do sản phẩm xuất khẩu còn hạn chế, nên các DN cũng giảm lượng nhập khẩu. Tổng kim ngạch nhập khẩu quý I ước đạt 5.423,3 triệu USD, giảm 7,1% so với quý I/2018. Trong đó, khu vực FDI đạt 5.351,9 triệu USD, giảm 7%; DNTN đạt 66,9 triệu USD và giảm 20,6%. Một số mặt hàng nhập có giá trị giảm so cùng kỳ năm trước, như: linh kiện điện tử (-5,2%); máy móc thiết bị (-15,7%); nguyên phụ liệu chế biến thức ăn gia súc (-45,9%); chất dẻo nguyên liệu (-55%); kim loại thường (-44,1%). Tuy một số mặt hàng là vải, xơ, sợt dệt, phụ liệu hàng dệt may tăng cao, nhưng tỷ trọng nhỏ nên tác động không đáng kể đến kim ngạch chung toàn tỉnh.
7. Vận tải, kho bãi và du lịch
7.1. Hoạt động vận tải: Giá nhiên liệu biến động không lớn, trong khi nhu cầu đi lại của dân cư và người lao động gia tăng, nhất dịp trước và sau Tết, đồng thời vận tải hàng hóa cũng được duy trì ổn định để phục vụ SXKD, nên hoạt động vận tải tăng trưởng khá so cùng kỳ.
Vận tải hành khách: Quý I, khối lượng hành khách (HK) vận chuyển ước đạt 8.506 nghìn HK, tăng 14,3% so cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển đạt 400,6 triệu lượt HK.km, tăng 15%. Trong đó, ngành đường bộ chiếm tỷ trọng chủ yếu, tăng 14,8% về vận chuyển và tăng 15% về luân chuyển. Xét theo loại hình kinh tế, khu vực FDI tuy vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ hơn, nhưng quy mô đang tăng dần, khối lượng vận chuyển đạt 2.834,2 nghìn HK, tăng 19,8% và khối lượng luân chuyển đạt 430,7 triệu lượt HK.km, tăng 21,6%. Vận chuyển hàng hoá, khối lượng vận chuyển quý I ước đạt 9.954 nghìn tấn, tăng 10,9% so cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển đạt 479 triệu tấn.km, tăng 9,9% so cùng kỳ. Trong đó, khối lượng vận chuyển đường sông ước đạt 2.397,2 nghìn tấn, tăng 9,2% so cùng kỳ; khối lượng luân chuyển đạt 280,5 triệu tấn.km và tăng 9,2%. Doanh thu vận tải, do sản lượng vận tải tăng và hoạt động kho bãi tiếp tục được mở rộng cả về quy mô và sản lượng hàng hóa bốc xếp, nên doanh thu vận tải kho bãi tăng khá. Tổng doanh thu quý I ước đạt 1.852,2 tỷ đồng, tăng 11,1% so cùng kỳ năm trước; trong đó doanh thu vận tải hành khách đạt 493,6 tỷ đồng và tăng 17,5%; doanh thu vận tải hàng hóa đạt 721,3 tỷ đồng, tăng 10,5%. Doanh thu của DN FDI ước đạt 657,4 tỷ đồng; so cùng kỳ năm trước, tăng 1,5% về tỷ trọng và tăng 12% về doanh thu.
7.2. Du lịch: Năm 2019, Bắc Ninh tổ chức kỷ niệm 10 năm Di sản văn hóa Quan họ được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, UBND tỉnh đã tổ chức Festival từ ngày 13-28/2 với 36 hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch, trong đó có hai tour du lịch miễn phí bằng xe buýt nối các điểm du lịch tâm linh trong tỉnh. Đặc biệt, UBND tỉnh đã tổ chức công bố Quyết định công nhận 11 điểm du lịch và khai mạc Tuần Văn hóa - Du lịch năm 2019. Vì thế, lượng du khách trong và ngoài nước đến Bắc Ninh trong quý I tăng khá. Tổng lượt khách ước đạt 590 nghìn lượt, tăng 18% so quý I/2018; tổng ngày khách ước đạt 710 lượt.ngày, tăng 22,4%; tổng doanh thu phục vụ (bao gồm cả doanh thu lưu trú và ăn uống) ước đạt gần 470 tỷ đồng, tăng 16,6%.
8. Các lĩnh vực xã hội
8.1. Đời sống dân cư và công tác xã hội
Theo số liệu tổng hợp, phần lớn các DN trên địa bàn tỉnh đều trả lương cho người lao động cao hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định tại Nghị định 153/2016/NĐ-CP. Đến cuối năm, không có tình trạng DN nợ lương người lao động. Tính chung, tiền lương trung bình năm 2018 trong các loại hình DN đạt 8 triệu đồng/người/tháng, tăng 12,7% so với năm 2017. Mức thưởng Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2019 bình quân trong các DN có báo cáo là 5.944 nghìn đồng/người, tăng gần 15% so với Tết Nguyên đán năm 2018. Đối với CBCC, viên chức, cùng với việc tăng lương cơ bản, các đơn vị hưởng lương từ NSNN đều chi thu nhập tăng thêm từ 1-2 tháng lương, thu nhập tăng trên 8%, chỉ số giá tiêu dùng ổn định, nên đời sống của của CBCC, viên chức tăng hơn. Các đối tượng hưởng lương hưu và trợ cấp BHXH được chi trả lương qua hệ thống bưu điện, kịp thời, an toàn, đúng đối tượng, nên đời sống ổn định. Ở khu vực nông thôn, sản xuất vụ đông tăng cả về diện tích, năng suất và sản lượng, giá sản phẩm đầu ra giữ ở mức cao, nông dân có lãi khá; nuôi trồng thủy sản, nhất là nuôi lồng bè đạt hiệu quả kinh tế, đã góp phần tăng thu nhập cho dân cư nông thôn từ 10-12%.
Công tác an sinh xã hội tiếp tục được cấp ủy, chính quyền địa phương chăm lo và cộng đồng DN cùng chia sẻ, hỗ trợ cả về giá trị và hiện vật. Nhân dịp Tết Nguyên đán, các cấp, các ngành và cộng đồng DN đã tổ chức thăm và tặng quà cho các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng, hộ nghèo, người cao tuổi và các đối tượng bảo trợ trợ giúp xã hội. Toàn tỉnh đã phát 81.309 suất quà với tổng số tiền gần 53 tỷ đồng. Trong đó, có 25.789 suất quà của Chủ tịch nước với số tiền 5,3 tỷ đồng; 33.763 suất quà ngân sách tỉnh với số tiền 40,8 tỷ đồng; 5.594 suất quà cho hộ nghèo với số tiền 4,5 tỷ đồng; so với Tết năm trước, tăng 23 tỷ đồng.
8.2. Lao động và việc làm
Mặc dù, sản xuất công nghiệp giảm, nhu cầu tuyển dụng lao động trong các DN chưa lớn, nhưng các trung tâm dịch vụ việc làm tiếp tục mở các đợt tư vấn và tuyển dụng lao động cho các DN mới đi vào hoạt động. Tính chung quý I, toàn tỉnh đã giải quyết việc làm mới cho 6.116 lao động, đạt 22,7% KH năm, tăng 1,9% so với quý I/2018, trong đó xuất khẩu được 470 lao động, gấp 2,6 lần. Công tác đào tạo nghề tiếp tục được tinh gọn về tổ chức và biên chế, đồng thời cắt giảm bới thời gian cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động giáo dục nghề nghiệp từ 10 ngày xuống còn 7 ngày. Trong quý, Sở LĐ-TB-XH đã thẩm định và cấp 4 giấy chứng nhận bổ sung giáo dục nghề nghiệp; tổ chức phê duyệt kế hoạt đào tạo nghề sơ cấp, dưới 3 tháng và đã tuyển sinh được 3.135 học viên theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến cuối quý I lên 66,3%.
8.3. Giáo dục - Đào tạo
Giáo dục: Theo số liệu tổng hợp, kết thúc học kỳ I năm học 2018-2019, toàn tỉnh có 459/483 trường học các cấp đạt chuẩn quốc gia, chiếm 95%; trong đó cấp mầm non đạt 158/170 trường, chiếm 92,9%; Tiểu học 154/154 trường, chiếm 100%; THCS 124/136 trường, chiếm 92,6% và THPT công lập 23/23 trường chiếm 100%. Đối với dự án xóa phòng học cấp 4; UBND tỉnh đã chỉ đạo các địa phương rà soát các trường không đủ diện tích đạt chuẩn thì có kế hoạch lập dự án di chuyển, xây mới hiện đại bảo đảm đủ diện tích và có giá trị sử dụng lâu dài theo quy mô, tốc độ tăng dân số tại địa phương. Tính đến hết tháng 2/2019, tỷ lệ phòng học kiến cố cao tầng toàn tỉnh đã đạt 98,7%, riêng khối THPT công lập đã về đích với 100%. Bên cạnh đó, UBND tỉnh cũng chỉ đạo ngành Giáo dục chuẩn bị các điều kiện cho chương trình giáo dục phổ thông mới được Bộ GD-ĐT ban hành tháng 12/2018 và dự kiến triển khai từ năm học 2020-2021.
Đối với các cuộc thi năm 2019, từ ngày 13-15/1 Bộ GD-ĐT đã tổ chức kỳ thi chọn học sinh giỏi quốc gia các môn văn hóa lớp 12 năm 2019. Đội tuyển tỉnh Bắc Ninh dự thi cả 9 môn với 70 thí sinh và đều là học sinh lớp 11 và 12 của Trường THPT Chuyên Bắc Ninh. Kết quả, có 59/70 thí sinh Bắc Ninh dự thi đạt giải gồm: 3 Nhất, 23 Nhì, 18 Ba, 15 Khuyến khích, chiếm 84%. Đây là kết quả xuất sắc nhất trong nhiều năm trở lại đây trên cả 3 phương diện: Số lượng giải, chất lượng giải và giải Nhất quốc gia. Từ ngày 9-12/3, tại trường THPT Chuyên Hà Nội - Amsterdam (Hà Nội), Bộ GD-ĐT tổ chức cuộc thi khoa học kỹ thuật (KHKT) cấp quốc gia dành cho học sinh trung học, năm học 2018-2019, khu vực phía Bắc từ Thừa Thiên Huế trở ra. Trong đó, Bắc Ninh có 9 dự án với 18 học sinh tham gia cuộc thi. Kết quả, đoàn Bắc Ninh đạt 5 giải (1 giải Nhì, 3 giải Ba, 1 giải Tư), xếp thứ 6 toàn đoàn sau Hà Nội, Nghệ An, Hải Phòng, Lào Cai và Quảng Ninh.
8.4. Chăm sóc sức khỏe cộng đồng
Quý I năm nay, thời tiết ổn định với nền nhiệt nóng hơn, nên số người bị bệnh về hô hấp giảm, nhất là người già và trẻ em dưới ba tuổi. Trong quý, các tuyến y tế đã khám bệnh cho 430 nghìn lượt người, tăng 9% so với quý I/2018; trong đó có 52,6 nghìn người điều trị nội trú, tăng 11,1% so cùng kỳ (thấp hơn mức 34,4% của quý I/2018). Ngày 5/3, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành Chỉ thị số 04/CT-UBND về “Tăng cường công tác đảm bảo an toàn thực phẩm trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” và đã chỉ rõ các nhiệm vụ, giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả Đề án. Trong quý I, BQL an toàn thực phẩm của tỉnh đã phối hợp với các ngành, các địa phương thành lập các đoàn, đội kiểm tra liên ngành và tổ chức kiểm tra hơn 300 cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm và đã xử lý 36 cơ sở vi phạm, phạt hành chính 154 triệu đồng.
Do lực lượng lao động nữ đến làm việc và sinh sống ở Bắc Ninh tăng, nên số lượng trẻ em được sinh ra có xu hướng tăng và điểm đáng chú ý là số phụ nữ sinh con thứ ba có biểu hiện gia tăng trở lại. Trong quý I, toàn tỉnh có 4.728 trẻ em mới sinh, tăng 19% so quý I/2018; trong đó có 1.142 phụ nữ sinh con thứ 3, tăng rất cao (+67,4%) so cùng kỳ. Các dịch vụ tránh thai, khám và điều trị phụ khoa cho phụ nữ được ưu tiên và nâng cao chất lượng. Đến cuối tháng 3, toàn tỉnh đã có 48.254 người sử dụng các biện pháp tránh thai, tăng 9,1% so cùng thời điểm năm trước.
8.5. Văn hoá thông tin và thể dục thể thao
Sở Văn hóa, thể thao và du lịch đã chỉ đạo Trung tâm Văn hóa và Nhà hát Quan họ xây dựng nhiều chương trình nghệ thuật phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh và các lễ hội truyền thống ở các địa phương; tổ chức Chương trình văn nghệ đón Giao thừa Xuân Kỷ Hợi 2019 tại khu vực Tượng đài Lý Thái Tổ, thành phố Bắc Ninh; bắn pháo hoa tại các khu vực trung tâm các huyện, thị xã, thành phố. Đặc biệt, nhân kỷ niệm 10 năm Dân ca Quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, UBND tỉnh đã tổ chức Festival “Về miền Quan họ - 2019” diễn ra từ ngày 13-28/2 (tức từ ngày mùng 9-24 tháng Giêng năm Kỷ Hợi) với 36 hoạt động văn hóa nghệ thuật, thể thao, du lịch, như: trưng bày tư liệu với chủ đề “Dân ca Quan họ Bắc Ninh trường tồn và lan tỏa”; trưng bày hiện vật với chủ đề “Dân ca Quan họ Bắc Ninh - Từ khởi nguồn đến đương đại”; tổ chức Lễ kỷ niệm và chương trình nghệ thuật vào ngày 23/2 với chủ đề “Rạng rỡ miền Quan họ”; tổ chức giao lưu nghệ thuật giữa một số di sản trong nước được UNESCO vinh danh với chủ đề “Tứ hải giao tình”; tổ chức cuộc thi “Người đẹp Kinh Bắc”; hội thi “Hát Dân ca quan họ”. Bên cạnh đó, các hoạt động trải nghiệm và biểu diễn, như: Viết thư pháp; xin Chữ đầu xuân; in tranh dân gian Đông Hồ; múa Rối nước; trưng bày “Cổ vật tiêu biểu”; Hội chợ triển lãm đá cảnh, sinh vật cảnh; Lễ hội Kinh Dương Vương, Lễ hội Khán hoa mẫu đơn tại chùa Phật tích, Hội Lim,… cũng được tổ chức gắn với các chương trình Festival.
Trong quý I, Đài Phát thanh và Truyền hình Bắc Ninh đã thực hiện 900 chương trình phát thanh với 1.485 giờ, gấp 3,6 lần so cùng kỳ năm trước; xây dựng và sản xuất 870 chương trình truyền hình với 2.160 giờ. Nhìn chung, hoạt động thông tin tuyên truyền, văn hóa văn nghệ trong quý I diễn ra sôi động, hiệu quả, đặc biệt hoạt động lễ hội được quản lý, tổ chức chặt chẽ góp phần gìn giữ, phát huy truyền thống văn hóa Kinh Bắc, được dư luận khách quan đánh giá tốt.
Các hoạt động văn hóa, thể dục thể thao quần chúng cũng được tổ chức sôi động, như: giải Cầu lông và Quần vợt truyền thống đầu năm với 150 VĐV đến từ 21 đơn vị trong tỉnh; diễu hành mô tô, xe đạp thể thao; giải Vật cổ điển, kéo co, điền kinh trong các lễ hội, đã thu hút hàng triệu lượt khách trong và ngoài tỉnh tham gia. Đặc biệt, từ ngày 22/02 đến ngày 01/03/2019 UBND tỉnh phối hợp với Liên đoàn Bóng chuyển Việt Nam và Ngân hàng Bưu điện Liên Việt đã tổ chức giải Bóng chuyền nữ Quốc tế cúp LienVietPostBank 2019 với sự tham dự của 04 đội bóng chuyền nữ quốc tế, 03 đội bóng chuyền nữ đạt giải cao tại giải Quốc gia và đội bóng chuyền nữ Kinh Bắc. Ngày 24/3, các ngành đã phố hợp tổ chức Giải chạy Nagakawa “Khỏe để lập nghiệp và giữ nước” Cúp Báo Bắc Ninh lần thứ 23 năm 2019 với 130 VĐV đến từ 10 đơn vị trong tỉnh cùng hơn 2.000 cán bộ, chiến sỹ lực lượng vũ trang, đoàn viên, thanh niên, học sinh, sinh viên và các lực lượng khác trong tỉnh tham gia chạy biểu dương lực lượng.
Trong quý, tỉnh đã cử 4 đoàn thể thao tham gia các giải quốc tế môn cử tạ, vật, cờ vua và karatedo. Tại giải Cử tạ trẻ thế giới tổ chức tại Mỹ từ ngày 4-16/3/2019, VĐV Đỗ Tú Tùng của đoàn Bắc Ninh đã đạt thành tích đặc biệt xuất sắc, phá 3 kỷ lục thế giới ở nội dung cử giật với kỷ lục mới là 95 kg; tương tự, cử đẩy với thành tích 125 kg và tổng cử là kỷ lục 220 kg.
8.6. An ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội
An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội: Với số lượng lớn lao động ngoại tỉnh đang làm việc trên địa bàn và tập trung ở các xã quanh các KCN, đã phần nào tác động đến nhiệm vụ giữ gìn an ninh chính trị, TTATXH trên địa bàn. Để đảm bảo an ninh, trật tự an toàn xã hội, lực lượng Công an đã chủ động tham mưu và phối hợp với các địa phương liên tục mở các đợt cao điểm giám sát, quản lý, tấn công và trấn áp tội phạm. Tính từ ngày 16/12/2018 đến ngày 15/3/2018, toàn tỉnh đã xảy ra 142 vụ phạm pháp hình sự, tăng 20 vụ so cùng thời điểm năm trước; phát hiện và bắt giữ 254 vụ buôn bán ma túy với 322 đối tượng, thu 1.835 gam heroin và ma túy tổng hợp; so cùng kỳ năm trước, giảm 154 vụ, giảm 205 đối tượng và giảm 3.317 gam ma tuý. Nhờ các lực lượng công an luôn chủ động đối phó và kiên quyết trấn áp, tấn công nên an ninh chính trị và TTATXH trên địa bàn tỉnh vẫn được giữ vững.
An toàn giao thông: Công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát giữ gìn trật tự an toàn giao thông tiếp tục được tập trung chỉ đạo thực hiện. Cùng với việc tích cực tuyên truyền, lực lượng cảnh sát giao thông phối hợp với các ngành chức năng triển khai nhiều biện pháp đồng bộ, tập trung ở những tuyến đường, nút giao thông trọng điểm. Đến nay, các nút cầu vượt QL1A và QL18 đã từng bước được nâng cấp mở rộng đồng bộ hơn, nên tình trạng ùn tắc trong giờ cao điểm cơ bản được khắc phục. Trong quý I, trên các tuyến đường bộ đã xảy ra 14 vụ TNGT, làm chết 14 người, bị thương 6 người; so cùng kỳ năm trước, giảm 6 vụ, giảm 2 người chết và tăng 1 người bị thương.
8.7. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường
Trong quý I, toàn tỉnh đã xảy ra 7 vụ cháy nổ, nhưng không gây thương vong về người, gây thiệt hại về kinh tế hơn 1.385 triệu đồng; so cùng kỳ năm trước, tăng 2 vụ. Tính từ ngày 16/12/2018 đến 15/3/2019, các lực lượng chức năng đã phát hiện và xử lý 138 vụ vi phạm pháp luật về môi trường; qua điều tra đã xử lý 72 vụ và thu nộp Kho bạc Nhà nước 605 triệu đồng; so với cùng kỳ năm trước, tăng 23 vụ vi phạm, giảm 50 vụ bị xử lý và giảm 595 triệu đồng.