Tình hình Kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh tháng 10 năm 2019
Theo báo cáo của Cục thống kê tỉnh, tình hình Kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Ninh tháng 10 năm 2019 như sau:
1. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản
1.1. Nông nghiệp
a) Trồng trọt
Đến ngày 18/10, toàn tỉnh thu hoạch được 27.160 ha lúa mùa, đạt 83,5% diện tích gieo cấy và tăng 5,7% so với cùng vụ năm trước. Theo đánh giá từ kết quả thăm đồng, sơ bộ ước tính năng suất lúa vụ mùa năm nay bình quân chung toàn tỉnh đạt 59,9 tạ/ha, tăng 3,1 tạ/ha so với ước lần 1 và tăng 2,6 tạ/ha so với cùng vụ năm trước. Một số cây trồng khác cũng đạt năng suất cao, như: ngô đạt 48,8 tạ/ha (+1,5 tạ); lạc đạt 22,9 tạ/ha, (+0,3 tạ); rau các loại 253,6 tạ/ha (+5,5 tạ),… Cùng với thu hoạch lúa mùa, bà con nông dân đang tập trung đẩy nhanh tiến độ gieo trồng cây màu vụ đông với các cây trồng chủ lực như: Cà rốt, bí xanh, bí đỏ, khoai tây, cà chua, hành, tỏi, rau xanh các loại. Đến ngày 18/10, toàn tỉnh đã trồng được 3.282,3 ha, đạt 46,9% KH vụ và tăng 23,5% so với cùng thời điểm năm trước.
b) Chăn nuôi và công tác thú y
Chăn nuôi: Tính đến thời điểm cuối tháng 10, đàn trâu có 2.674 con, tăng 0,3% (+9 con) so với cùng thời điểm năm trước; đàn bò có 28.700 con, giảm 2,3% (-674 con); đàn lợn có 167.608 con, giảm 57,4% (-226.132 con); đàn gia cầm đạt 5.572 nghìn con, tăng 2,5% (+136 nghìn con). Công tác thú y: Đến ngày 17/10/2019, toàn tỉnh đã sử dụng 59,9 nghìn lít hóa chất và 2.905 tấn vôi bột cho công tác vệ sinh, khử trùng, tiêu độc trong các chuồng trại, đường làng, ngõ xóm, nơi họp chợ, các điểm buôn bán, giết mổ, vận chuyển gia súc, gia cầm và khu vực công cộng,... Trong tháng 10, toàn tỉnh đã tiêm được 6,4 nghìn liều vắc-xin các loại cho đàn lợn và 639,5 nghìn liều vắc-xin cho đàn gia cầm.
1.2. Lâm nghiệp
Tháng 10, toàn tỉnh trồng được 12 nghìn cây phân tán, bằng 85,7% so với cùng kỳ năm trước; khai thác được 357 m3 gỗ, giảm 0,8%; khai thác 495 ste củi, giảm 0,6%. Công tác quản lý, bảo vệ rừng và PCCR được các cấp, các ngành quan tâm, tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực tham gia thực hiện trồng, bảo vệ và phát triển rừng. Do thực hiện tốt công tác quản lý bảo vệ rừng nên trong tháng không xảy ra cháy rừng.
1.3. Thuỷ sản
Tính đến cuối tháng 10, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 5.171 ha, giảm 0,6% so với cùng kỳ năm trước; sản lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác 10 tháng ước đạt 30.821 tấn, tăng 0,6% (+185,6 tấn). Trong đó, sản lượng nuôi trồng 29.841 tấn, tăng 0,7% (+216,6 tấn); sản lượng thủy sản khai thác 980 tấn, giảm 3,1% (-31 tấn).
2. Sản xuất công nghiệp
2.1. Chỉ số sản xuất công nghiệp
Sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh tháng 10 giảm nhẹ so với tháng trước (-0,8%), nhưng vẫn tăng so với cùng tháng năm trước (+5,5%). Nguyên nhân là do, một số ngành chiếm tỷ trọng lớn có chỉ số giảm so với tháng trước và tăng so với cùng tháng năm trước, như: Sản xuất đồ uống (-2,2% và gấp 2,2 lần); sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu (-0,8% và +10,3%); SXSP từ kim loại đúc sẵn (-9,8%); và đặc biệt, ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính giảm 1,5% và tăng 6,3%, trong đó giảm nhiều ở nhóm điện thoại thông minh trên 10 triệu đồng giảm 15% so với tháng trước và giảm 15,4% so với cùng tháng năm trước (tuy nhiên nhóm sản phẩm đồng hồ thông minh tăng mạnh (+60% và gấp 11 lần), nên đã bù lại một phần mức giảm của nhóm điện thoại). Một số ngành có dấu hiệu khởi sắc hơn trong những tháng cuối năm nên đạt mức tăng trưởng khá so với tháng trước và cùng tháng năm trước như: SX chế biến thực phẩm (+2,6% và +9,8%); SX trang phục (+14,1% và 51,8%); chế biến gỗ và SXSP từ gỗ, tre, nứa (+8,7% và +34%); SX máy móc, thiết bị khác (+3,2% và +8,7%),...Tính chung 10 tháng, chỉ số sản xuất công nghiệp toàn tỉnh vẫn giảm 6,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, công nghiệp chế biến chế tạo giảm 6,3%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng,..tăng 7,5%; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,1%.
2.2. Sản phẩm công nghiệp
Tháng 10, một số sản phẩm có lượng sản xuất cao so với tháng trước và so với cùng tháng năm trước do nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu những tháng cuối năm gia tăng, như: Sữa và kem chưa cô đặc (+8,3% và +19,5%); mỳ, phở, miến (+5,2% và +5,2%); quần áo mặc thường (+11,8% và +32,1%); giấy và bìa (+2,5% và +13,8%); bê tông trộn sẵn (+17,2% và +9,7%); đồng hồ thông minh (+62,9% và gấp 11,6 lần); linh kiện điện tử (+1,1% và +4,9%); bình đun nước nóng (+2,8% và +5,2%); tủ gỗ (+1,6% và +20,5%),...Tính chung 10 tháng, một số sản phẩm trọng tâm của tỉnh vẫn đạt mức tăng trưởng khá như: Sữa và kem (+7,8%); mỳ, phở (gấp 8,7 lần); quần áo (+22,1%); giấy và bìa (+4,9%); dược phẩm (+36,6%); điện thoại thông minh dưới 3 triệu (gấp 3,8 lần), đồng hồ thông minh các loại (gấp 8 lần).
2.3. Chỉ số sử dụng lao động
Do sản xuất công nghiệp vẫn tăng thấp, nhu cầu sử dụng lao động không tăng lớn nên chỉ số sử dụng lao động trong tháng 10 chỉ tăng 0,5% so với tháng trước nhưng giảm 7,8% so với cùng tháng năm trước. Sau 10 tháng, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp vẫn giảm 10,2% so cùng kỳ năm trước.
3. Đầu tư
3.1. Vốn đầu tư: Tổng vốn đầu tư của Nhà nước do địa phương quản lý tháng 10 ước đạt 490,3 tỷ đồng, tăng 1,9% so với tháng trước và tăng 32,7% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng, tổng vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách Nhà nước đạt 4.079,3 tỷ đồng, tăng 42,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đầu tư từ ngân sách tỉnh là 2.907,8 tỷ đồng, tăng 47,7%.
3.2. Hoạt động cấp phép đầu tư
Tính từ ngày 01/01 đến 20/10, Bắc Ninh đã cấp mới cho 194 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký 758,3 triệu USD; điều chỉnh vốn cho 123 dự án với số vốn điều chỉnh tăng là 562,6 triệu USD; góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp 169 lượt với giá trị là 55,6 triệu USD. Lũy kế đến ngày 20/10, đã cấp đăng ký đầu tư cho 1.451 dự án (còn hiệu lực) với tổng vốn đầu tư đăng ký sau điều chỉnh và góp vốn mua, mua cổ phần, phần vốn góp đạt 18.437 triệu USD.
4. Thương mại, dịch vụ và giá cả
4.1. Lưu chuyển hàng hoá - dịch vụ
a) Bán lẻ hàng hóa
Tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa tháng 10 ước đạt 4.489 tỷ đồng, tăng 2,7% so với tháng trước và tăng 13,9% so với cùng tháng năm trước. Một số nhóm hàng có mức tăng khá so với cùng tháng năm trước, như: Lương thực, thực phẩm (+17,9%); gỗ và VLXD (+11,3%); ô tô các loại (+13,5%); đá quý, kim loại quý (+17,9%),…Tính chung 10 tháng, tổng doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 38.943,8 tỷ đồng, tăng 12,6% so với cùng kỳ năm trước.
b) Dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác
Tháng 10, doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành và dịch vụ tiêu dùng khác đạt 1.046,5 tỷ đồng, tăng 1,5% so với tháng trước và tăng 1,6% so với cùng tháng năm trước. Trong đó, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 451,3 tỷ đồng, tăng 5% và tăng 2,4%. Doanh thu dịch vụ tiêu dùng khác đạt 593,8 tỷ đồng, giảm nhẹ 0,1% và tăng 1%. Tính chung 10 tháng, doanh thu dịch vụ đạt 10.268,2 tỷ đồng, đạt xấp xỉ so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, dịch vụ ăn uống giảm 2,4%, chủ yếu do một số DN FDI cắt giảm bớt công nhân, nên doanh thu suất ăn công nghiệp cũng giảm theo. Dịch vụ lưu trú tăng 2,3%, dịch vụ tiêu dùng khác tăng 1,7%.
4.2. Tình hình giá cả
a) Chỉ số giá tiêu dùng: Tháng 10, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,83% so với tháng trước, tăng 2,01% so với cùng tháng năm trước và tăng 1,59% so với tháng 12 năm trước. Một số nguyên nhân tác động làm tăng CPI, như: (1) Giá thịt lợn các loại tăng mạnh do dịch tả lợn Châu Phi phát sinh và gây thiệt hại, nên nguồn cung giảm mạnh; (2) Giá ga đồng loạt điều chỉnh tăng từ 01/10 với mức tăng bình quân 15.000-20.000đ/bình12 kg; (3) Giá xăng được điều chỉnh tăng vào ngày 01/10 và giảm vào ngày 16/10, nhưng tính chung giá xăng, dầu diezen vẫn tăng 2,23%. Tính chung 10 tháng, CPI tăng 2,69% so với cùng kỳ năm 2018.
b) Chỉ số vàng và Đôla Mỹ: Sau một thời gian liên tục tăng, đến tháng 10 giá vàng đã có dấu hiệu chững lại. Bình quân trong tháng, giá vàng bán ra bán ra ở mức 4.188 nghìn đồng/chỉ, đã giảm 0,43% so với tháng trước, nhưng vẫn tăng 21,54% so với cùng tháng năm trước và tăng 19,66% so với tháng 12/2018. Tính chung 10 tháng, giá vàng đã tăng 8,08% so với cùng kỳ năm trước. Trong khi đó, đôla Mỹ ổn định. Bình quân tháng 10, đồng đôla bán ra ở mức 23.263 đ/USD, tương đương so với tháng trước, giảm 0,5% so với cùng tháng năm trước và giảm 0,4% so với tháng 12/2018. Bình quân 10 tháng, giá đôla Mỹ tăng 1,36% so với cùng kỳ.
4.3. Xuất, nhập khẩu
a) Xuất khẩu
Tháng 10, Tổng kim ngạch xuất khẩu trong tháng ước đạt 4.425,6 triệu USD, tăng 10,7% so với tháng trước và tăng 33,8% so với cùng tháng năm trước. Tính chung 10 tháng, kim ngạch xuất khẩu đạt 29.020,7 triệu USD, giảm 3,6% so với cùng kỳ năm trước.
b) Nhập khẩu
Tháng 10, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 3.049,9 triệu USD, tăng 8,2% so với tháng trước và tăng 24,7% so với cùng tháng năm trước.Tính chung 10 tháng, tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 22.488,6 triệu USD, chỉ giảm 0,5% so với cùng kỳ năm trước.
5. Giao thông vận tải
5.1. Hoạt động kinh doanh vận tải
Vận tải hành khách: Tháng 10, khối lượng vận chuyển ước đạt 3,6 triệu lượt khách, tăng 0,8% so với tháng trước và tăng 12,6% so với cùng tháng năm trước; khối lượng luân chuyển đạt 93,9 triệu HK.km, tăng 0,4% và tăng 12%. Lũy kế 10 tháng, khối lượng vận chuyển ước đạt 31,7 triệu lượt khách, tăng 10,2% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển 833,8 triệu HK.km, tăng 10,3%. Doanh thu vận tải hành khách ước đạt 1.348,3 tỷ đồng, tăng 11,5%
Vận tải hàng hoá: Tháng 10, khối lượng vận chuyển ước tính đạt 3,1 triệu tấn, tăng 1,7% so với tháng trước và tăng 9,4% so với cùng tháng năm trước; khối lượng luân chuyển đạt 214 triệu tấn.km, tăng 0,9% và tăng 9,5%. Lũy kế 10 tháng, khối lượng vận chuyển ước đạt 27,7 triệu tấn, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển 2.241,1 triệu tấn.km, tăng 8,6%. Doanh thu vận tải hàng hoá ước đạt 2.422,4 tỷ đồng, tăng 10,3%.
5.2. Tình hình an toàn giao thông
Tháng 10, trên địa bàn toàn tỉnh xảy ra 9 vụ TNGT, làm 7 người chết và 2 người bị thương. Tiến hành xử phạt 3.187 trường hợp vi phạm, nộp phạt kho bạc 1,657 tỷ đồng. Sau 10 tháng, toàn tỉnh đã xảy ra 77 vụ TNGT, làm chết 59 người và bị thương 27 người; so với cùng kỳ năm trước, giảm 18 vụ, giảm 7 người chết và giảm 5 người bị thương.
6. Tài chính
Tháng 10, tổng thu ngân sách Nhà nước ước đạt 2.947,6 tỷ đồng, tuy tăng cao (+34,7%) so với tháng trước, nhưng lại giảm 8,8% so với cùng tháng năm trước. Sau 10 tháng, tổng thu ngân sách nhà nước đạt 25.241,9 tỷ đồng, đạt 92,1% dự toán và tăng 1,3% so với cùng kỳ năm 2018. Thu ngân sách ổn định góp phần đảm bảo cân đối chi ngân sách địa phương, nhất là chi cho đầu tư phát triển. Tháng 10, tổng chi ngân sách ước đạt 1.641,9 tỷ đồng, tăng 14,9% so với tháng trước và tăng 30,9% so với cùng tháng năm trước. Sau 10 tháng, tổng chi ngân sách địa phương là 16.080 tỷ đồng, đạt 90,7% dự toán và tăng 22,7%.
7. Ngân hàng - Tín dụng
Tính đến cuối tháng 10, tổng nguồn vốn huy động ước đạt 118.500 tỷ đồng, tăng 3,5% so với tháng trước, tăng 23,5% so với cùng tháng năm trước và tăng 18,4% so với cuối năm 2018. Tổng dư nợ tín dụng đến cuối tháng 10 ước đạt 87.100 tỷ đồng, tăng 0,2% so với tháng trước, tăng 11,9% so với cùng tháng năm trước và tăng 8,1% so với cuối năm 2018. Công tác xử lý nợ xấu được thực hiện nghiêm túc nhằm thu hồi nợ xấu, xử lý ngăn chặn nợ xấu mới phát sinh. Dự kiến đến hết tháng 10 nợ xấu trên địa bàn là 1.000 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 1,15% trên tổng dư nợ cho vay.
8. Một số vấn đề xã hội
8.1. Hoạt động y tế
Tháng 10, toàn tỉnh thực hiện khám chữa bệnh cho 183,9 nghìn lượt người, tăng 9,1% so với cùng tháng trước; trong đó điều trị nội trú cho 24,8 nghìn lượt người, tăng 6,4%. Sau 10 tháng, đã khám chữa bệnh cho 1.833,1 nghìn lượt người, tăng 7,5%; điều trị nội trú cho 245,3 nghìn lượt người, tăng 6,9%.
Công tác vệ sinh ATTP được tăng cường. Trong tháng, Ban Quản lý An toàn thực phẩm tỉnh đã tổ chức tập huấn kiến thức ATTP cho 300 học viên là chủ cơ sở kinh doanh và cán bộ quản lý ATTP toàn tỉnh nhằm góp phần nâng cao ý thức và trách nhiệm của chủ cơ sở kinh doanh trong việc tuân thủ các điều kiện bảo đảm an toàn và chịu trách nhiệm đối với thực phẩm do mình sản xuất, kinh doanh.
8.2. Giáo dục và đào tạo
Ngành giáo dục tiếp tục triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ năm học mới, đồng thời ưu tiên đầu tư vốn mua sắm, sửa chữa lớn để tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập. Năm học 2019-2020, đến nay giáo dục phổ thông các cấp đã ổn định đi vào nề nếp và đang tiến hành tổ chức kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh thời điểm giữa kỳ 1 của năm học. Sở GD-ĐT cũng đã hoàn tất việc tuyển chọn 72 học sinh vào đội tuyển thi học sinh giỏi quốc gia 9 môn văn hóa THPT năm 2020 gồm các môn: Toán, Lý, Hóa, Sinh, Tin, Văn, Sử, Địa, Tiếng Anh. Hiện nay, ngành Giáo dục đang tiến hành xây dựng kế hoạch tổ chức dạy ôn 9 môn thi đến hết tháng 12/2019 để chuẩn bị cho kỳ thi chọn học sinh giỏi Quốc gia năm học 2019-2020 sẽ diễn ra vào đầu năm 2020.
8.3. Văn hoá thông tin, thể dục thể thao
Hoạt động thông tin văn hóa tập trung tuyên truyền về các ngày kỷ niệm, ngày lễ lớn, các nhiệm vụ chính trị trọng tâm trong tháng. Nhiều hoạt động văn hóa, văn nghệ được tổ chức trọng thể như: Ngày người cao tuổi, ngày vì người nghèo, ngày phụ nữ Việt Nam,.. Đặc biệt, hưởng ứng ngày vì người nghèo năm 2019, sáng 16/10, Ban Vận động “Ngày vì người nghèo” tỉnh tổ chức Lễ phát động toàn dân ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” năm 2019. Ngay sau lễ phát động, lãnh đạo tỉnh, các đại biểu dự buổi lễ và có 127 các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, cá nhân đã trực tiếp ủng hộ, đăng ký ủng hộ Quỹ “Vì người nghèo” cấp tỉnh với tổng trị giá gần 5 tỷ đồng. Công tác quản lý nhà nước về thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, tang, lễ hội, mừng thọ và đón nhận các danh hiệu thi đua trong đợt cuối năm cũng được thực hiện tốt. Hoạt động thể thao trên địa bàn tỉnh tiếp tục được nhân rộng, trong đó đã tổ chức nhiều giải thể thao cấp tỉnh như: Giải cầu lông, quần vợt, bóng bàn…
8.4. Tình hình cháy, nổ và vi phạm môi trường
Tháng 10, cơ quan chức năng đã phát hiện 68 vụ vi phạm môi trường. Trong đó, tiến hành xử lý 52 vụ với 49 cá nhân và 6 tổ chức, tổng số tiền nộp phạt kho bạc là 256,5 tỷ đồng. Công tác PCCC&CNCH tiếp tục được tăng cường. Trong tháng, trên địa bàn toàn tỉnh đã xảy ra 1 vụ cháy tại xưởng sản xuất tái chế nhựa không gây thiệt hại về người, thiệt hại về tài sản khoảng 4 tỷ đồng./.